NLA Lịch Sử?
Lịch Sử?
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn gắn với huyền thoại về một cô thôn nữ xinh đẹp tên là Đế. Do có thai với vua Thủy Tề, Đế bị dân làng phạt vạ, mang ra dìm chết ở ngoài khơi Hòn Độc. Nơi bà chết tôm cá kéo đến tập trung, năm này qua năm khác các vạn chài kéo đến đánh cá. Người dân biết ơn lập đền thờ, gọi là đền Bà Đế. Về sau, người ta tổ chức lễ hội chọi Trâu để mang ra biển cúng Bà.
Hội chọi trâu Đồ Sơn diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm. Ở Việt Nam có nhiều nơi có lễ hội chọi trâu, nhưng không có truyền thuyết đi kèm.
Truyền thuyết Minangkabau kể về sự kiện dân tộc mình là dân di cư từ biển vào. Họ di cư trên những con thuyền lớn và được dẫn dắt bởi một vị thủ lĩnh vĩ đại nhất thế giới. Truyền thuyết còn kể về nguồn gốc của cái tên "Minangkabau". Nó là sự kết hợp của hai từ minang - "chiến thắng" và kabau - "trâu".
Truyền thuyết kể rằng xưa có cuộc xâm lược từ láng giềng. Để tránh một trận chiến, thủ lĩnh người địa phương đã đề xuất một cuộc huyết giữa hai con trâu để phân thắng bại. Quân xâm lược đưa con trâu lớn nhất, hung dữ nhất của mình ra. Người dân địa phương đưa ra một con nghé con đói sữa với cặp sừng nhỏ được mài sắc như dao. Nhìn thấy con trâu đực to lớn ghe con chạy tới hy vọng được bú sữa. Con trâu đực to lớn không thấy mối đe dọa nào ở con nghé con. Nghé con khát sữa thúc đầu bụng con trâu đực tìm vú. Cặp sừng sắc nhọn của nó đã đâm thủng và giết chết con trâu đực. Cuộc chiến xâm lược đã không xảy ra. Người dân địa phương gọi mình là "Minangkabau" -- tức trâu chiến thắng.
Tích truyện nghé chọi trâu có trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Truyện kể rằng, khi xưa triều đình Phương Bắc đưa tới một con trâu đực to lớn thách chọi làm nhục quốc thể ta. Lúc ấy Quỳnh cho thả một con nghé con khát sữa ra. Nghé thấy trâu đực to lớn, tưởng là trâu mẹ liền húc đầu vào bụng tìm vú. Trâu Tàu nhột không chịu được liền bỏ chạy.
Truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy kể rằng. Xưa, do An Dương Vương có nỏ thần mà Triệu Đà đưa quân đánh An Dương Vương mãi vẫn không thắng. Triệu Đà bèn gả con mình là Trọng Thủy cho Mỵ Châu là con gái của An dương Vương. Trong thời gian ở rể, Trọng Thủy đánh cắp bí mật nỏ thần mang về nước cho Triệu Đà. Mất bí mật về nỏ thần. Không còn nỏ thần An dương Vương thua trận. Dọc đường chạy trốn Mỵ Châu rắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy. Triệu Đà lần theo vết lông ngỗng đuổi theo. Tới Con Cuông, An Dương Vương rút gươm chém đầu Mỵ Châu và chạy thoát ra biển.
Khả năng rất cao, khi xưa ông cha chúng ta đã huấn luyện trâu để đánh giặc. Nghé chọi thắng trâu là không có thực, vậy nên câu truyện Trạng Quỳnh là được sáng tác ra. Tích truyện này chỉ có ở dân tộc Minangkabau và dân tộc Việt Nam, mà không có ở tất cả các dân tộc khác. Vậy khả năng rất cao An dương Vương và đoàn tùy tùng của ông ta đã chạy thoát tới vùng tây Sumatra để tạo ra dân tộc Minangkabau. Phải chăng tích truyện bà Đế có liên quan tới Mỵ Châu - Trọng Thủy?
Đội tàu của An Dương Vương thế nào?
Các hình vẽ trên hang động Tham Phrayanak ở tỉnh Krabi vào đầu Công Nguyên cho thấy ở khu vực Đông Nam Á đã có giao thương thuyền buồm cỡ lớn.
Khu vực bờ biển Thanh Nghệ Tĩnh là nơi có các cảng lớn. Như vậy điều kiện để An dương Vương và đoàn tùy tùng chạy thoát tới tây Sumatra là có. Phân tích dựa trên tỷ lệ tăng dân số ở khu vực Minangkabau, chúng ta biết số lượng người Minangkabau vào thời 200 năm trước Công Nguyên là khoảng 100. Đây là con số phù hợp với lượng người chạy thoát tới tây Sumatra trên các con thuyền.
Ở xã Hồng Thái huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình có đền thờ Đồng Xâm thờ Triệu Đà và "bồ" của ông ta là bà Trình thị Hoàng Hậu. Dựa trên bản đồ mật độ phân bố dòng họ Triệu và họ Trình thì chúng ta nhận thấy phân bố điểm của hai dòng họ này ở vùng Đồng Xâm. Truy ngược thời gian theo tỷ lệ gia tăng dân số ở đồng bằng Bắc Bộ chúng ta thấy, vào thời điểm khoảng 200 năm về trước, ở Hồng Thái có vài người mang họ Triệu và Trình.
Khu vực Đồng Xâm ở cùng cao độ với Đông A (Đông Hưng, Thái Bình). Đồng Xâm và Đông A ở hai bờ sông Trà Lý, cùng độ cao như nhau. Cả hai vùng này đều là các vị trí chặn khiến cho dòng nước sông đổi hướng, vì thế chúng có cấu trúc là đá rắn bên dưới. Như thế đây là khu vực vẫn cao như thế từ nhiều trăm nhìn năm nay. Dựa trên Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và mật độ dòng họ chúng ta biết được Đông A là nơi Nhâm Diên đặt "kinh đô" của Cửu Chân. Vậy Đông A là nơi có dân cư sinh sống vào thời Nhâm Diên, tức năm 29 sau Công Nguyên. Như vậy, khả năng cao vào thời Triệu Đà đánh An Dương Vương, tầm năm 170 trước Công Nguyên thì Đồng Xâm cũng có người sinh sống.
Nhiều nơi xung quanh khu vực Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam) như các làng Văn Tinh, Lực Canh (thuộc xã Xuân Canh), Thạc Quả (thuộc xã Dục Tú) cũng có đền thờ Triệu Đà. Xuân Canh xưa là bờ nhánh nay đã cạn của con sông Hồng. Tục truyền là Mã Viện hội quân ở đây trước khi tiến quân vào Cổ Loa để đánh nhau với An Dương Vương.
Như vậy Triệu Đà đã tiến vào vùng Đồng Xâm để di chuyển theo sông Trà Lý và các hệ thống sông nhỏ nước không chảy xiết để qua sông Đuống tới vùng Cổ Loa.
Nhìn vào bản đồ độ cao bạn Hoang Viet Anh cung cấp, chúng ta nhận thấy vào đầu Công Nguyên khu vực Gián Khẩu còn là biển. Như vậy An dương Vương chỉ có thể chạy từ Cổ Loa qua vùng Lương Sơn rồi chạy dọc theo sông Bưởi tới khu vực mà nay là Thành Nhà Hồ. Tiếp theo An dương Vương chạy dọc theo sông Mã ra tới Sầm Sơn. Ở Sầm Sơn nay vẫn còn đền thờ An Dương Vương (PVWG+JWJ). Từ Sầm Sơn, An Dương Vương chạy tới đền Cuông ở núi Mộ Dạ thuộc Diễn Châu tỉnh Nghệ An (WJ33+RX). Nơi này xưa là eo biển. Có lẽ từ đây An Dương Vương và đoàn tùy tùng đã lên thuyền chạy thoát ra biển.
Kết nối lại tất cả các tình tiết chúng ta có thể nhận thấy sự kiện Triệu Đà đánh nhau với An Dương Vương ở Cổ Loa là có thật.
Năm 218 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư (屠睢) làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thủy Hoàng lập nên ba quận là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và Tượng quận.
Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao (壬嚣)[8] cùng Triệu Đà đến cai trị vùng Lĩnh Nam. Nhâm Ngao làm Quận úy quận Nam Hải. Nam Hải gồm bốn huyện Bác La, Long Xuyên, Phiên Ngung và Yết Dương.
Vào năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng chết, Trung Nguyên rơi vào cảnh rối ren loạn lạc. Năm 208 TCN, Nhâm Ngao lâm bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà tới trao quyền cai trị quận Nam Hải và dặn rằng: "Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên (tức khu vực trung ương Trung Quốc) đánh xuống".
Triệu Đà thực hiện kế hoạch của Nhâm Ngao, đưa quân tới trấn giữ các cửa ngõ Lĩnh Nam lập ra nhà nước Nam Việt.
Sau đây là dữ liệu từ cổ Hán thư về chuyến thám hiểm biển về phía nam (mà TQ gọi là con đường Tơ Lụa trên biển). Lộ trình đường biển từ Nhật Nam
自日南障塞、徐聞、合浦船行可五月,有都元國;
又船行可四月,有邑盧沒國;
又船行可二十餘日,有諶離國;
步行可十餘日,有夫甘都盧國;
自夫甘都盧國船行可二月餘,有黃支國。
dịch:
- Từ biên giới Nhật Nam, đi thuyền qua cửa ải Nhật Nam, Từ Văn 徐聞, Hợp Phố 合浦, mất khoảng 5 tháng đến Đô Nguyên Quốc 都元國.
- Từ Đô Nguyên, đi thuyền khoảng 4 tháng, đến Ấp Lô Mật Quốc 邑盧沒國.
- Từ đây, đi thuyền khoảng hơn 20 ngày, đến Thậm Ly Quốc 諶離國.
- Đi bộ thêm hơn 10 ngày, đến Phu Cam Đô Lô Quốc 夫甘都盧國.
Từ Phu Cam Đô Lô, tiếp tục đi thuyền hơn 2 tháng, đến Hoàng Chi Quốc 黃支國.
Về Hoàng Chi Quốc 黃支國
Phong tục tương tự như vùng Chu Nhai 珠劯. Vùng đất rộng lớn, dân cư đông đúc, có nhiều vật phẩm kỳ lạ. Từ thời Hán Vũ Đế 漢武帝, vùng này đã triều cống cho nhà Hán.
Giao thương với nhà Hán:
Có dịch trưởng 譯長, thuộc Hoàng Môn 黃門, cùng các thương nhân ra biển mua bán ngọc trai, bích ngọc, lưu ly, đá quý kỳ lạ. Đem theo vàng và vải quý để trao đổi hàng hóa. Các quốc gia này đều cung cấp lương thực, nhưng cũng có rủi ro bị cướp bóc, sát hại. Biển có sóng lớn, nguy hiểm, nhiều người tử nạn. Nếu may mắn, sau vài năm mới có thể trở về. Ngọc trai lớn nhất có đường kính khoảng 2 tấc (~4.5 cm).
Quan hệ giữa Hoàng Chi Quốc và nhà Hán: Thời Hán Bình Đế (漢平帝, 1-5 SCN), khi Vương Mãng 王莽 nắm quyền, muốn thể hiện uy thế nên đã gửi quà tặng hậu hĩnh đến vua Hoàng Chi, yêu cầu cống nạp một con tê giác sống.
自黃支國船行可八月,到皮宗;
自皮宗船行可二月,到日南象林界;
黃支之南有已程不國,漢之譯使自此還矣。
dịch:
- Từ Hoàng Chi đi thuyền 8 tháng, đến Pi Tông 皮宗.
- Từ Pi Tông, đi thuyền 2 tháng, đến biên giới Nhật Nam - Tượng Lâm 日南象林界.
Phía nam Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Bất 已程不國, nơi sứ giả nhà Hán dừng lại trước khi quay về.
Đoạn văn trên là thông tin sớm nhất về “con đường Tơ Lụa trên biển của Trung Quốc cổ đại”. Dựa vào mô tả lịch trình đi và về chúng ta nhận thấy thời Hán Vũ Đế Nhật Nam và Tượng Lâm là các địa danh ở vùng gần Hợp Phố thuộc Quảng Đông của Trung Quốc nay.
Từ Văn 徐聞, Hợp Phố 合浦 là hai địa danh tới nay vẫn còn ở vùng phía bắc vịnh Hạ Long. Lộ trình "Con Đường Tơ Lụa biển" đi từ Nhật Nam đi tới Hoàng Chi Quốc 黃支國 và ngược lại. Nó cho thấy Nhật Nam là ở khu vực Quảng Đông nay, và gần với Từ Văn (徐聞), Hợp Phố (合浦).
Theo như Sử Ký thì Nhật Nam tức là có ngày mà bóng của mặt trời ở về phía Nam. Phần bắt đầu của Nhật Nam Nó là chí tuyến 23°26′09″ bắc. Như vậy Nhật Nam không phải là một quốc gia mà là vùng có thời điểm mặt trời ở về phía nam.
Với sự mô tả chuyến thám hiểm "Con Đường Tơ Lụa" đường biển về phía nam chúng ta nhận thấy: Vào thời điểm năm 110 trước Công Nguyên thì Giao Chỉ và Cửu Chân khi ấy là thuộc Quảng Đông và Quảng Tây.
Triệu Đà (趙佗) mất vào khoảng năm 137 TCN. Như vậy khi Triệu Đà đánh An Dương Vương thì đất Cổ Loa chưa được gọi là Giao Chỉ.
Lộ Bác Đức (路博德) – một danh tướng nhà Hán – đã chỉ huy quân đội tiêu diệt nước Nam Việt (nhà Triệu) vào năm 111 TCN (năm Nguyên Đỉnh thứ 6 thời Hán Vũ Đế). Thâm chí là thời Hán Vũ Đế thì Giao Chỉ vẫn ở Quảng Đông và Quảng Tây.
Việc Bắc Bộ của Việt Nam nay bị đổi thành Giao Chỉ và Cửu Chân diễn ra vào khoảng thời gian từ năm 110 trước Công Nguyên cho tới năm 29 sau Công Nguyên.
《水经注·卷三十七》:《交州外域记》曰:交阯昔未有郡县之时,土地有雒田。其田从潮水上下,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯,主诸郡县。县多为雒将,雒将铜印青绶。
后蜀王子将兵三万,来讨雒王、雒侯,服诸雒将,蜀王子因称为安阳王。后南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人,名皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人。南越王知不可战,却军住武宁县。按晋《太康记》县属交趾。越遣太子名始,降服安阳王,称臣事之。安阳王不知通神人,遇之无道,通便去,语王曰:能持此弩王天下,不能持此弩者亡天下。通去,安阳王有女名曰媚珠,见始端正,珠与始交通。始问珠,令取父弩视之。始见弩,便盗以锯截弩讫,便逃归报南越王。南越进兵攻之,安阳王发弩,弩折,遂败。安阳王下船,迳出于海。
dịch:
《Chú giải Thủy Kinh – Quyển 37》 có chép trong 《Giao Châu ngoại vực ký》 như sau:
"Xưa kia, khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, vùng đất này có ruộng Lạc (雒田). Những ruộng ấy theo con nước thủy triều lên xuống, người dân khai hoang và canh tác trên những thửa ruộng ấy, nên gọi là 'Lạc dân' (雒民). Họ lập ra Lạc Vương và Lạc Hầu để cai quản các quận huyện. Các huyện phần lớn do Lạc tướng cai trị, Lạc tướng mang ấn đồng, thắt dây thao màu xanh.
Sau này, con trai vua Thục dẫn ba vạn binh đến chinh phạt Lạc Vương, Lạc Hầu và hàng phục các Lạc tướng. Con trai vua Thục xưng là An Dương Vương.
Về sau, Nam Việt vương Triệu Đà đem quân đánh An Dương Vương. An Dương Vương có một vị thần nhân tên là Cao Thông, hạ thế phò trợ, chế ra cho An Dương Vương một cây nỏ thần, mỗi phát giết ba trăm người. Nam Việt Vương biết không thể đối đầu, liền lui quân đóng ở huyện Vũ Ninh.
Theo 《Thái Khang ký》 thời Tấn, huyện này thuộc Giao Chỉ. Triệu Đà sai thái tử tên là Trọng Thủy đến thần phục An Dương Vương, tự xưng là bề tôi. An Dương Vương không biết Thông là thần nhân nên đối đãi bất kính, Thông liền bỏ đi và nói với vua rằng: 'Người giữ được nỏ này thì giữ được thiên hạ, không giữ được thì mất thiên hạ.'
Sau khi Thông bỏ đi, An Dương Vương có con gái tên là Mị Châu, thấy Trọng Thủy khôi ngô tuấn tú nên hai người tư thông với nhau. Trọng Thủy hỏi Mị Châu xin xem cây nỏ, Mị Châu đồng ý, Trọng Thủy lén lấy nỏ rồi dùng cưa cắt gãy nỏ, sau đó trốn về báo cho Nam Việt Vương. Nam Việt tiến binh đánh, An Dương Vương giương nỏ thì nỏ gãy, liền bị đánh bại. Vua xuống thuyền chạy thẳng ra biển."
《Giao Châu ngoại vực ký》 (交州外域记) là một tác phẩm cổ ghi chép về địa lý, lịch sử và phong tục của vùng Giao Châu và các khu vực xung quanh (tức miền Bắc Việt Nam và lân cận). Nó được biên soạn trong khoảng thế kỷ 3 tới 5, có thể là vào thời Tam Quốc, Tây Tấn hoặc Lưỡng Tấn – Nam Bắc triều.
Các dữ liệu khảo sát thành Cổ Loa cho thấy thành được đắp vào năm 250 trước Công Nguyên.
Như vậy khả năng rất cao sự kiện Triệu Đà có đánh nhau với An Dương Vương ở Cổ Loa.
Các phân tích sau cho thấy vùng đất Phú Thọ và Cổ Loa không hề có mộ thuyền. Như vậy không thể có các dòng dân di cư từ nhà Thục tới.
Tên Thục Phán không liên quan gì tới nhà Thục. Âm "thục phán" trong tiếng phạn là शुभ भान . Nó hàm ý “Ánh sáng hiền lành”, “Người đức độ chiếu soi thiên hạ”. Tên gọi Ashoka bao gồm tiền tố phủ định "A" và phần “śoka” (शोक). Kết hợp lại thành “Không ưu sầu”, tức lạc quan chiến thắng. Như vậy Thục Phán A Dục Vương có nghĩa là "Vị vua anh minh đức độ".
Dựa vào phân tích
Chúng ta có thể đưa ra kết luận vương triều Việt Thường Thị đã có từ hơn 3000 năm về trước. Kinh thành của Việt Thường Thị có lẽ là ở khu vực thành Nhà Hồ, và cũng có thể ở khu vực ven sông Mekoong. Vào khoảng năm 800 trước Công Nguyên, cuộc chiến Xuân Thu đã khiến cho nhiều toán chạy loạn về phía nam. Các vua Hùng là một trong số các tàn quân tới được vùng Phú Thọ. Hậu duệ của các vua Hùng là cư dân mang họ Phùng. Vào khoảng năm 350 trước Công Nguyên, hậu duệ của các vua Hùng nống xuống vùng Bình Lệ Nguyên và bị Phù Đổng Thiên Vương đánh bại. Tàn quân của vua Hùng thứ 17 đổi sang họ Ma và chạy lên Tuyên Quang. Vào năm 250 trước Công Nguyên, An Dương Vương đã từ vùng Thanh Nghệ Tĩnh Sepon đánh ra vùng đồng bằng Bắc Bộ, xây thành Cổ Loa. Vào năm 170 thì An Dương Vương bị Triệu Đà đánh bại chạy về đền Cuông và lên thuyền trốn thoát cùng tùy tùng sang bờ phía tây Sumatra lập nên dân tộc Minangkabau.
Mặc dù Triệu Đà (hoặc Trọng Thủy) có đưa quân sang đánh An Dương Vương, nhưng cho tới tận thời điểm năm 110 trước Công Nguyên thì tên gọi Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam vẫn là các vùng đất thuộc Quảng Tây. Khả năng cao nhận thức của nhà Hán về đường biển là do người dân vùng Đông Sơn cung cấp. Dựa vào các thông tin này mà Hán Quang Vũ đã cho thuyền đi thám hiểm. Vào thời điểm năm 29 sau Công Nguyên thì nhà Hán đã cho người sang quản lý vùng đất ở Bắc Việt Nam nay. Khi ấy các Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam tương ứng với các đại danh ở Việt Nam. Vào năm 42 Mã Viện đánh Bà Trưng, chiếm đoạt tài nguyên đồng. Nhà Hán chính thức đặt ách đô hộ lên Giao Chỉ.
Mã Viện bị chặn lại ở bờ bắc sông Lèn. Như vậy cuộc chiến của Mã Viện không hoàn toàn thăng lợi.
Để tránh bị Mã Viện và chính quyền Giao Chỉ chư hầu tiến đánh mà vương triều Đông Sơn di chuyển về phía nam lập nên vương quốc Champa và Phù Nam.
Các phân tích dấu vết văn hóa Ấn trong các dân tộc ở Đông Dương cho thấy làn sóng Phật giáo di chuyển từ Ấn Độ sang phía đông, trong khi ở Ấn Độ, vào sau năm 400 thì Phật giáo đã bị thay bởi Hindu giáo. Các phân tích chỉ ra Campuchia, Lào, Thái Lan, Mianmar và Việt Nam theo Phật giáo.
Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng 400 năm trước Công Nguyên. Tới năm 400 sau Công Nguyên, Hindu giáo tiêu diệt Phật giáo ở Ấn Độ. Dựa trên các công trình kiến trúc tôn giáo thì cả Champa và Phù Nam đều theo Hindu giáo. Sự kiện Thái Lan, Mianmar, Lào, Campuchia, Việt Nam theo Phật giáo cho thấy con đường truyền Hindu giáo vào Champa và Phù Nam theo là bằng đường biển. Quần thể đền Angkor là thuộc Hindu giáo, nó là sản phẩm của Champa và Phunam, tức là sản phẩm của vương triều Đông Sơn khi chạy về phía nam.
Lịch sử dân tộc ta vào thời kỳ từ 3000 năm tới đầu Công Nguyên có lẽ là như vậy.
Không hề đơn giản. Mong các bạn ủng hộ để tôi chú tâm hoàn toàn vào nghiên cứu tìm lại lịch sử dân tộc.
19020911085021 TECHCOMBANK
Chủ tài khoản: Nguyen Le Anh
Nhận xét
Đăng nhận xét