NLA - Sự thật thế nào?

 Sự thật thế nào?

27-th04-2025

Chúng ta không có khả năng hỏi ai để xác lập ra cấu trúc lịch sử dân tộc mình, ngoại trừ sử dụng phép duy vật biện chứng, tức nhìn nhận sự vận động một cách khách quan, để nhận ra sự thật. Khách quan tức là không một ai có thể phủ nhận được. Chúng ta quan niệm lịch sử dân tộc là một môn khoa học về quá khứ. Điều này hàm ý, lịch sử dân tộc không thể là phạm trù bịa đặt ngẫu hứng.
Mọi ngành khoa học được bắt đầu từ việc xác lập ra các phạm trù. Chúng ta đưa ra định nghĩa dân tộc, định nghĩa lịch sử dân tộc để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Văn hoá được hiểu là các nguyên lý định hướng tư duy. Ngôn ngữ chiếm một phần rất lớn trong tổng thể văn hóa dân tộc. Dân tộc được xác định bởi văn hoá. Khu vực có điều kiện sống thuận lợi thì mật độ dân số cao. Do văn hoá được xác định bởi bộ phận cư dân chiếm đa số, vì thế mà xét trong một khoảng thời gian đủ dài, thì văn hoá của một dân tộc được xác lập bởi văn hoá ở những vùng có điều kiện sống tốt. Ở các nước nông nghiệp, vùng đồng bằng hạ lưu các con sông là nơi xác lập văn hoá dân tộc.
Công nghệ trồng lúa xuất hiện ở vùng Ban Chiang vào khoảng 4500 năm về trước. Các di tích khảo cổ cũng cho thấy dấu vết của lúa ở đồng bằng sông mã và sông Hồng từ 4000 năm về trước.
Sự phát triển của dân tộc do các quy luật kinh tế chính trị chi phối. Một phần rất lớn chính trị được truyền tải trong tôn giáo.
Cho tới tận thế kỷ thứ 10, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp. Ước tính dựa trên diện tích đồng bằng, thì cho tới tận thế kỷ thứ 10 khu vực có kinh tế phát triển nhất ở Đại Việt là vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Khu vực đồng bằng sông Hồng vào thế kỷ thứ 10 chủ yếu vẫn còn là vùng đầm lầy.
Ngoài ra ở Đông Sơn có các mỏ đồng và thiếc rất lớn và được khai thác lộ thiên từ hơn 3200 năm về trước. Như vậy 3000 năm về trước cho tới thế kỷ thứ 10, Đông Sơn là nơi kinh tế phát triển nhất cả nước. Chính sử nhà Chu có ghi nhận, hơn 3000 năm về trước vương quốc Việt Thường Thị tới chào xã giao. Căn vào chính sử nhà Chu thì người Kinh ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Cả đã có cấu trúc vương quốc từ hơn 3000 năm về trước.
Vào khoảng 3000 năm về trước, sức mạnh kinh tế của Champa là hơn Đại Việt. Tỷ lệ sức mạnh kinh tế áng chừng 7/5. Vào đầu Công Nguyên sức mạnh kinh tế của Champa và Đại Việt tương đương nhau. Sau thế kỷ thứ 10 thì Đại Việt có sức mạnh kinh tế vượt Champa.
Như vậy, khoảng thời gian 3000 năm về trước văn hóa dải đất ven biển của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ Champa. Trong khoảng thời gian cho tới thế kỷ thứ 10 văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng từ vùng Đông Sơn.
Các ước tính đọc ở đây
Lịch sử dân tộc được hiểu là sự mô tả quá trình phát triển dân tộc.
Như vậy
"Lịch sử dân tộc là hệ thống niềm tin không gây ra mâu thuẫn với tất cả các quy luật khách quan, tiệm cận tốt nhất tới các sự kiện của dân tộc chứa trong cổ thư, giải thích được các sự kiện có trong dã sử và hệ thống tâm linh đình đền chùa, và là lựa chọn tốt nhất cho sự phát triển trong tương lai của dân tộc."
Chúng ta bám vào định nghĩa lịch sử dân tộc như vậy để tìm hiểu các sự kiện đã diễn ra từ đầu Công Nguyên.
Cụ Phan Khôi viết.
Theo thống kê từ kho tư liệu gồm 12895 thần tích, sắc phong do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp thu thập đầu thế kỷ 20, tất cả các vua Hùng đều không nằm trong số được thờ phụng nhiều nhất.
- Riêng trên phạm vi 1250km² của tình Hà Đông cũ (nay thuộc TP Hà Nội), trong số 2477 thành hoàng thì có tới 1674 nhân thần nhưng Hùng Vương chỉ xuất hiện 01 lần, An Dương Vương 02 lần, tương phản với Lý Nam Đế 16 lần, Lý Phục Man 10 lần, Phùng Hưng 11 lần, Đoàn Thượng 14 lần, v.v.
- Mà chỉ có 51 lần xuất hiện những nhân vật lịch sử sống trước TK 10 trong vị trí thành hoàng ở tình Hà Đông cũ.
- Cũng tại tỉnh Hà Đông cũ, đa số thành hoàng lại không phải là các nhân vật lịch sử, mà là các nhân vật hoang tưởng như có đến 219 nữ thần (riêng Mẫu Liễu Hạnh được thờ ở 19 nơi mà Mẫu Âu Cơ chỉ có 2 lần) và 116 thuỷ thần, v.v. Trong số các nam thần thì bộ ba Tản Viên Tam thánh được thờ nhiều nhất rồi đến Linh Lang và Đông Hải đại vương, v.v..
Hiện nay, cả nước có hơn 1400 di tích thờ Vua Hùng và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương. Hầu hết các đền thờ này đều xuất hiện sau năm 1975. Với số lượng đền thờ Vua Hùng như vậy, sau 1000 năm nữa con cháu chúng ta có thể sẽ hình dung Hùng Vương đã đi dạo khắp tất cả nước Việt. Hình dung như vậy thì được gọi là hoang sử.
Trong suốt chiều dài lịch sử, có thể cũng đã từng có rất nhiều hoang sử được tạo ra. Thống kê cụ Phan Khôi đưa ra có phần nào cho thấy khả năng có hoang sử đã được tạo ra về các Vua Hùng như là tổ tiên của dân tộc Việt chúng ta.
Khoảng 23 nghìn năm về trước mực nước biển xuống thấp hơn ngày nay 130m. Vịnh Hạ Long có độ sâu chưa tới 50m nên đây là vùng đất liền. Giới khảo cổ đã phát hiện ra nhiều dấu vết người tiền sử 20 nghìn năm tuổi ở khu vực Lương Sơn (Hòa Bình). Cư dân tiền sử sinh sống nhiều ở vùng hạ lưu các con sông. Người tiền sử là tổ tiên trực tiếp của người Việt Nam chúng ta hiện nay tới từ Đông Ấn và sinh sống ở đồng bằng Hạ Long này. Trong suốt thời gian 15 nghìn năm tiếp theo, cho tới tận 8000 năm về trước mực nước biển dâng cao dần. Mỗi năm khoảng 8 milimet. Khoảng 6000 năm về trước đồng bằng Bắc Bộ của Việt Nam là một vịnh biển nông có nhiều gò nổi. Cư dân tiền sử sinh sống ở đồng bằng hạ Long di vào vùng ven biển Quảng Tây, Quảng Ninh, và ven vịnh biển nông Đồng Bằng Bắc Bộ. Họ nói bằng cùng một thứ tiếng và giao thương đi lại. Gia tộc họ Trần, họ Mạc từ Phúc Kiến di chuyển về vùng Hải Dương, hải Phòng, Nam Định vào thế kỷ thứ 10 và vẫn nói bằng thứ tiếng của cha ông họ ở Phúc Kiến -- và đấy là tiếng Việt Nam chuẩn ngày nay.




Theo thời gian do được phù sa của các con sông bồi mà các gò trong vịnh biển nông lớn dần lên. Vịnh dần biến thành ruộng lúa và đầm ao. Theo hướng phù sa bồi mà các ruộng lúa dài dần ra theo hướng chỉ tới các vùng mà xưa là nơi nước sâu quanh gò. Khoảng nước giữa các gò hẹp lại mà thành các con sông chảy ngoằn nghèo. Ngày nay các hình dạng các gò đất không còn, nhưng phần ruộng lúa bao quanh gò thì vẫn còn. Văn hóa Gò Đống chuyển thành văn hóa Làng Xã. Cư dân tiền sử sống ở chân núi là người Mường, cư dân tiền sử sinh sống ở vùng đất mới bồi là người Kinh.
Có 3 nguồn bổ cấp dân di cư tới đồng bằng Bắc Bộ, đó là các nguồn bổ cấp di cư theo ven biển từ Quảng Tây, các nguồn bổ cấp di cư từ Vân Nam tới theo sông Thao, và các nguồn bổ cấp tới từ phía Đông Sơn (Thanh, Nghệ, Tĩnh, Sepon..).
Đông Dương có nhiều mỏ đồng, vì thế có nhiều dòng dân di cư từ Vân Nam và Đông Ấn tới. Số lượng người di cư khá nhiều nên tiếng kinh ở khu vực này có sắc âm bị già hóa hơn là cư dân từ dưới biển di cư lên (khu vực Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình).
Đặc trưng chung của nồi gốm của cư dân đồng bằng Bắc Bộ là thấp và đáy nồi bè ra. Nguyên nhân của sự kiện nồi gốm có hình dạng đáy bè như vậy là do nó được đun bằng rơm rạ. Điều này là khác với nồi gốm ở vùng xứ lạnh được nấu trong các lò sưởi. Do nồi hấp thụ nhiệt không phải từ đáy mà từ thành nên nó có dánh cao và thành rộng. Hình dạng này được gọi là bell beaker. Các di vật gốm khảo cổ được ở vùng Phú Thọ và Vĩnh Yên cho thấy dấu vết của đồ gốm thuộc văn hóa xứ ôn đới bell beaker. Nó giống như đồ gốm tìm được ở vùng ve hồ Điền Trì. Như vậy từ 4000 nghìn năm về trước đã có sự giao thoa văn hóa giữa cư dân sống ở phía thượng nguồn và hạ nguồn sông Thao.
Dấu vết phân bố dòng họ Phùng cho thấy khoảng gần 3000 năm về trước đã có một đợt di dân tới vùng Phú Thọ - Sơn Tây. Ước tính theo tỷ lệ gia tăng dân số chung ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thì dòng người di cư này khoảng từ 1000 cho tới 2000 người. Họ Phùng là hậu duệ của các Vua Hùng. Họ Phùng chủ yếu phân bố trong khu vực có bán kính khoảng 10km, phần còn lại của đồng bằng Bắc Bộ là dân bản xứ. Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương nói tới cuộc chiến chống giặc ngoại xâm Phương Bắc, là cuộc chiến đánh lại các con cháu vua Hùng nống từ vùng Sơn Tây - Phú Thọ xuống Bình Lệ Nguyên. Họ Ma có gia phả từ năm 350 trước Công Nguyên. Gia phả cho biết họ Ma là hậu duệ của các Vua Hùng thứ 17. Phân bố dòng họ Ma cho thấy nó có dạng vệt di cư kéo dài từ đầm Vạc thuộc Vĩnh Yên tới Tuyên Quang. Như vậy họ Ma chính là tàn quân của hậu duệ các vua Hùng khi nống xuống vùng Bình Lệ Nguyên. Cuộc chiến Phù Đổng Thiên Vương đánh lại các vua Hùng có lẽ diễn ra vào khoảng năm 350 trước Công Nguyên. Ứng với 17 đời vua Hùng, mỗi đời 30 năm, thì thời điểm các vua Hùng chạy loạn tới Phú Thọ là khoảng năm từ 800 trước Công Nguyên. Đây là thời điểm bắt đầu các cuộc chiến Xuân Thu -- các cuộc chiến đánh bắt nô lệ Xuân Thu.


phân bố dòng họ Phùng











Khác với Thành Hoàng phải được Vua chuẩn ý, các đền thờ thường là do dân tự lập ra. Đền thờ có thể là di tích của một sự kiện lớn tạo ra cảm súc xã hội. Nó thường là gắn với những cái chết trong một cuộc chiến lớn. Do là các sự kiện bột phát nên cũng có thể đền xuất hiện từ ý đồ nào đấy, kiểu như đền thờ các vua Hùng được xây đồng loạt sau năm 1975 ở nhiều tỉnh trong cả nước. Việc xuất hiện cùng lúc đền thờ các vua Hùng trong phạm vi cách nhau hàng nghìn km cho thấy nó không xuất phát từ cảm súc xã hội mà là từ hoang tưởng.
Để khôi phục lịch sử dân tộc, chúng ta phải cố chắt lọc từ các di tích. Trong phân tích sau chúng ta cố gắng tìm hiểu các di tích về Hùng Vương được cho là đã có từ tương đối lâu. Trước hết chúng ta theo dõi di tích các đền thờ Lạc Long Quân và vua Hùng ở đồng bằng Bắc Bộ thì nhận thấy có vệt di tích.
1- Liên Bạt huyện Ứng Hòa.
Theo truyền thuyết và thần phả còn lưu giữ thì từ cuối đời vua Hùng thứ 17, đất Liên Bạt đã có dân đến tụ cư và lập nên những trang ấp. Tướng Quý Minh đã chọn vùng này làm doanh trại để đánh nhau với quân Thục Phán.
2- Bình Đà.
Đình (Đền) Nội gắn liền với truyền thuyết thời dựng nước, 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ lên miền núi rừng, 50 người con trai xuống biển cùng cha Lạc Long Quân. Tương truyền, 50 người con theo cha Lạc Long Quân đến đất Bảo Đà, dân gian thường gọi là Cổ Nõi hay Kẻ Nõi, (nay là Bình Đà) khi đó còn gần biển, truyền cho các con dừng chân dựng trại.
3- Đền thờ Lạc Long Quân tại phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
4- Việt Trì.
Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân, tại khu đồi Sim, xã Chu Hóa, Việt Trì, Phú Thọ nổi tiếng linh thiêng, gắn liền với truyền truyết “Con rồng cháu tiên”.
5- làng Thượng Ngạn, xã Văn Lang huyện Hưng Hà - Hùng Vương Linh từ là ngôi đền thờ Hùng Vương thứ XVII ở Thái Bình.
6- Đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương thuộc thôn A Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
Phần lớn các di tích kể trên là ở dọc theo con sông Đáy. Vào đầu Công Nguyên đây là vùng đầm hồ, không được coi là thuận lợi cho sinh sống. Dựa vào phân bố các đền thờ Lạc Long Quân chúng ta có thể cho là hậu duệ của các vua Hùng đã di chuyển từ vùng Sơn Tây - Phú Thọ tới sinh sống ở khu vực này. Thần phả làng Liên Bạt huyện Ứng Hòa có ghi tướng Quý Minh đã chọn vùng này làm doanh trại để đánh nhau với quân Thục Phán. Như vậy, Thục Phán An dương Vương có lẽ đã từ Đông Sơn ra đánh bại các Vua Hùng. An Dương Vương đã cho xây thành Cổ Loa vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên.
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương với con gái thần hồ Động Đình. Hồ Động Đình ở lưu vực của con sông Dương Tử. Như thế Lạc Long Quân không liên quan gì tới các đền thờ ở Việt Nam. Lạc Long Quân được coi là nhân thần. Việc thờ cúng các vị nhân thần làm Thành Hoàng là một xu thế hoang sử đời xưa. Tuy nhiên, việc chọn Thành Hoàng có thể phản ánh một sự thật nào đấy về dòng người di cư từ vùng Phú Thọ - Sơn Tây tới.
Các phân tích về đền thờ Triệu Đà ở Đồng Xâm cho thấy khả năng cao Triệu Đà đã tới vùng này.
Các truyền thuyết của dân tộc Minangkabau cho thấy đã có các cuộc di cư từ biển tới tây Sumatra. Sự tích "Nghé chọi thắng trâu đực để bảo vệ tổ quốc" chỉ có ở dân tộc Minagkabau và dân tộc Kinh cho thấy khả năng rất cao An Dương Vương đã chạy thoát tới vùng tây Sumatra và tạo ra dân tộc Minagkabau.
Như thế tryền thuyết về Triệu Đà đánh nhau với An Dương Vương ở Cổ Loa có thể là đúng.
Triệu Đà vốn là tướng được Tần Thủy Hoàng phái đi đánh vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng tây). Sau khi Tần Thủy Hoàn chết, Triệu Đà đã xưng vương xưng đế ở vùng đất mới. Triệu Đà là người Hán. Vào đầu Công Nguyên khu vực ven biển Quảng Tây chưa có nhiều người Hán. Cuộc chiến giữa Triệu Đà với An Dương Vương trên thực tế là cuộc chiến giữa dòng dân di cư từ ven biển với dòng di cư từ Đông Sơn.
Khu vực đồng bằng Bắc Bộ được cho là cái nôi của dân tộc Kinh chính là một vùng tranh giành của các dòng dân di cư. Do đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc gò đống và được bao quanh bởi các dãy núi cao nên chỉ có các dòng dân di cư nhỏ lẻ tới. Các dòng dân di cư này bị cư dân bản xứ, dân tộc Kinh, đồng hóa văn hóa. Lẽ dĩ nhiên các dòng dân di cư có mang theo văn hóa của mình và tạo thành dòng bổ cấp thêm vào văn hóa của dân tộc Kinh.
Cấu trúc vương quốc đã có thì không mất đi. Sự kiện trống đồng Đông Sơn xuất hiện chủ yếu vào thời kỳ từ năm 250 trước Công Nguyên cho tới đầu Công Nguyên cùng với sự thật là phân bố trống đồng loại chất lượng cao tập trung chủ yếu ở vùng Đông Sơn, cho thấy Đông Sơn chính là hậu duệ của Việt Thường Thị. Do dùng bản vị đồng và Đông Sơn tự khai thác được nhiều đồng nên cấu trúc vương triều Đông Sơn không ở dạng quản lý hành chính thu tô thu thuế. Cấu trúc này giống như ban điều hành của một cái chợ. Sau khi bị Mã Viện đánh phá, cái chợ này di chuyển về phía nam, tạo ra các chợ quốc tế ở Hội An, ở Óc Eo. Chính quyền Đông Sơn là tiền đề tạo ra vương triều Chăm sau này.
Theo cấu trúc tâm linh quần thể đền tháp tiền Angkor thuộc tín ngưỡng Ấn Độ giáo. Ấn giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên. Người Campuchia theo Phật giáo. Như vậy quần thể quần thể đền tháp tiền Angkor không phải là sản phẩm của người Campuchia, và Phunam không phải là tiền thân của Campuchia.
Tượng bốn mặt ở Óc Eo là tượng thần Brahma, được tìm thấy tại Giồng Xoài, có niên đại thế kỷ 6-7. Nó chứng tỏ tiền Angkor là thuộc văn hóa Óc Eo - Phu Nam. Nền văn hóa này là sản phẩm của cái chợ Đông Sơn xưa.
Có thể dân tộc chúng ta đã được tạo ra như vậy.
Chúng ta sẽ còn lật đi lật lại nhiều lần khung lịch sử dân tộc. Mong các bạn ủng hộ quá trình nghiên cứu.
19020911085021 TECHCOMBANK
SWIFT code VTCBVNVX
Nguyen Le Anh
Cảm ơn các bạn.
Bản đồ
https://www.facebook.com/nguyenleanh2007/posts/10217248719627339
ứng với màu đỏ là +30m so với mực nước biển

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Gạ thằng Tùng viết blog

Xe

Mối họa của Văn tự (Môjika,1942) - Nakajima Atsushi