Y đạo channel luu trữ

Y đạo:

Câu chuyện Đông y:

TÍA TÔ VÀ CÂU CHUYỆN CHỮA NGỘ ĐỘC CUA CỦA HOA ĐÀ

     Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày của tiết Trọng dương năm thứ 99, Hoa Đà dẫn đồ đệ của mình đến một quán rượu trong trấn để uống rượu. Lúc này, ông nhìn thấy vài cậu thiếu niên tranh nhau ăn cua, Hoa Đà cho rằng cua có tính lạnh, nếu họ ăn quá nhiều thì sẽ bị bệnh, vì thế ông đã bước tới thuyết phục họ. Tuy nhiên, đám thiếu niên trẻ nọ không những không nghe theo mà còn chế nhạo Hoa Đà là người tham lam. Vì lo sợ sẽ có tai nạn nghiêm trọng, Hoa Đà bèn quay lại yêu cầu chủ quán rượu đừng bán cua cho nhóm thiếu niên này nữa, nhưng chủ quán không đồng ý, nên Hoa Đà đành phải ngồi xuống uống rượu với đồ đệ của mình.

     Một giờ cứ thế trôi qua, trên trán mấy thiếu niên kia đột nhiên đổ mồ hôi hột, hai tay ôm bụng lăn lộn trên mặt đất kêu đau bụng. Chủ quán rượu sợ hãi hỏi đã xảy ra chuyện gì vậy, lúc này thiếu niên nghi cua có độc nên đã cầu xin chủ quán đi tìm đại phu đến. Hoa Đà thấy vậy liền chủ động nói mình là đại phu, có thể chữa khỏi bệnh, nhưng yêu cầu nhóm thiếu niên sau này phải tôn trọng người lớn tuổi và nghe theo lời khuyên của họ. Lúc này vì quá đau nên bọn họ liền đồng ý. Hoa Đà bảo mấy thiếu niên đợi một lúc, rồi đi hái một ít cỏ có lá màu tím ở ngoài cửa, sau đó nhờ ông chủ sắc bát thuốc cho họ uống. Các thiếu niên uống xong thì không còn cảm thấy đau bụng nữa, cảm ơn Hoa Đà lần nữa rồi đi về nhà.

     Sau đó, Hoa Đà làm viên hoàn, tán từ thân và lá của loại cỏ tím này. Khi chữa cho người bệnh, ông phát hiện loại thuốc này còn có tác dụng tán biểu, ích tỳ, tuyên phế, lợi khí, hoá đàm, chỉ khái giảm ho. Vì loại thảo dược này có màu tím, ăn vào trong bụng thấy rất thoải mái nên Hoa Đà đã đặt tên cho nó là “Tử thư” , sau này người ta gọi nó là “Tử tô” (tía tô).

     Tía tô vị cay, tính ôn; quy kinh phế, tỳ vị. Có công dụng giải biểu tán hàn, hành khí hoà vị. Dùng để trị cảm mạo phong hàn, ho, nôn, phụ nữ mang thai buồn nôn, giải độc cua cá....Theo nghiên cứu y học hiện đại, tía tô có chứa geraniol, flavonoid, terpenoid, citronellol, v.v., có thể chống oxy hóa, hạ huyết áp, chống huyết khối, kháng khuẩn, v.v. ​Trên lâm sàng dùng để trị các bệnh lý uất ức, tim mạch,...

-----Bs Hiền Hương dịch-----


Cúc hoa và kỳ tử thanh can đe mắt sáng khỏe, trà


Nữ Đến kỳ kinh, gừng và đường đỏ


Liên tử/ hạt sen để kiện tỳ vs ý dĩ bài thấp lợi thủy, hàn thấp dễ , ng buòn ngủ đi phân k thành hình


Hạt muồng rang lên vs gạo tẻ thì ngủ ngon


Kiện tỳ


Tân di hoa _> thông thảo


Hôi miệng vì trung tiêu yêwu năng lực giâng của trung tiêu yếu, đung trúc nhự , cốc nha, mạch nha


Phượn hoàng y


Là cái màng của quả trứng


Bạch thược lợi gân cốt thay cho dâm dương hoẵc// chuột rútY đạo:

BỆNH CỦA MÙA HẠ


Huyết gặp Hàn thì đông lại. Huyết nhiệt tà quá thịnh sẽ chảy bậy làm nục huyết, thổ huyết.


Bệnh của mùa Hạ là bệnh nhiệt có thừa (thực nhiệt) lại tích cả ẩm thấp gây viêm lở, ngứa, loét, nhọt độc....


**

NHIỆT QUÁ PHÁT RỒ


Đối với người bình thường vào Hạ khi nhiệt thịnh quá thì sẽ bị nhiệt uất làm đổ máu mũi, trĩ ra máu, thổ huyết, nhọt độc, viêm da, viêm đại tràng...


Nếu biết xả nhiệt bằng các loại rau trái, sắn dây, nước cam chanh và hạn chế ăn đồ cay nóng thì không có việc gì.


Tuy nhiên đối với một số người có bệnh lý thần kinh thì mùa Hạ là mùa dễ phát bệnh cuồng, động kinh vì Tâm Hoả quá thịnh.


Tây Y quan điểm bộ não là TW thần kinh nên cứ nhè bộ não mà chữa như chữa triệu chứng.


Đông Y quan điểm Tâm (quả tim) là nơi cư ngụ của Thần Minh là thần thức của con người, còn Thận là nơi tàng Chí chủ về suy tư sâu xa do Thận chủ Cốt Tủy mà Não là cái bể chứa Tủy (Hải Tủy)


Tâm hành Hoả, ngôi nhà rực lửa thì Thần Minh phát cuồng nên sinh ra chứng điên, nộ (cuồng), co giật (kinh giản), cười nói nhảm...


****

THANH TÂM HOẢ - LUI NHIỆT TÀ


Nhiệt tà nấp ở trong người, trong Huyết mạch sẽ trong Tâm Can Phế Thận sẽ được chứa rồi xả ra Tiểu tràng, Đại tràng, Bàng quang và lỗ chân lông (đổ mồ hôi). Khi có nhiệt thịnh thì các cơ quan bài tiết có xu hướng bế rít lại (do mạch máu giãn nở, xung huyết)


Nếu Nhiệt không xả được thì đổ máu xuất huyết, phát cuồng. Nên một mặt vừa thanh nhiệt ở Tâm Can Phế là thượng tiêu vừa tả nhiệt ở Hạ tiêu.


Vị thuốc Đại hoàng bình thường để sơ tiết Đại tràng, nhuận trường, chữa bí tiện, trĩ nhưng khi trong thang "Tả Tâm Thang" lại dùng để trừ nhiệt ẩm nấp trong Đại tràng.


Vị Đăng tâm (cỏ bấc, tim đèn) hay Bạch mao căn (rễ cỏ tranh) thì lợi niệu, sơ tiết được tiểu thải nhiệt ẩm ra Bàng quang nên thanh được Phế nhiệt (Phế với Bàng quang chung Thủy đạo).


Đối với bị Bồ Hoàng (cỏ nến/hình) thì thanh nhiệt, cầm được máu chảy tràn.


Hà Diệp (lá sen) thì tiêu ứ huyết, sung huyết, đổ máu lại chữa trúng thử (đi ngoài nắng sốc nhiệt).


***

NỘI THƯƠNG 


Nhưng mà những người hay bị chứng Nhiệt tà quá thịnh là căn gốc Huyết đã không nhuận, mát tức đã có yếu tố nội thương nay gặp thêm ngoại tà (nắng Hạ) đưa tới thì bùng lên thành bệnh.


Vậy mới cần tới Sanh địa để bổ Huyết, lương Huyết.


HƯƠNG PHỤ & ĐÀN BÀ KHÓ CHỮA VÌ TÍNH TÌNH HAY PHẪN NỘ !


Hải Thượng Lãn Ông chép về bệnh của phụ nữ khó chữa nằm ở chỗ: "Đàn bà tính hay yêu lại thường phẫn nộ".


***


Trong chữ mà Hán chiết tự thì chữ "An" 安 gồm chữ "Nữ" (người nữ) nằm dưới chữ "Miên" (mái nhà). Người đàn bà mà chịu ngồi im trong nhà tức là yên bình.


Chữ "Nộ" 怒 trong phẫn nộ thì gồm chữ "Nữ" (nữ) ở trên bên trái đứng cạnh chữ "Hựu" (lặp lại), ở dưới là chữ "Tâm". Nghĩa là đàn bà trong suy nghĩ có cái gì lặp đi lặp lại.


Tóm lại, đàn bà tính khí thất thường, vui buồn không biết đường lần. Bệnh cũng do tính cách thất thường mà sinh ra khó chữa vì phẫn nộ thì làm Can Uất Khí, sôi máu lên, lâu ngày khô huyết.


***


THIÊN ĐỊA KHÔNG YÊU GHÉT KẺ NÀO


Thời may, ông Trời sinh ra đứa con gái/đàn bà tính tình thất thường thì "ổng" cũng sinh ra một loài thảo chữa bệnh sinh ra từ tính thất thường đó.


Loại cỏ chữa tính Can Khí Uất hay Nộ Khí của đàn bà là "Hương phụ" hay còn gọi tên dân dã là Cỏ Cú, Cỏ Gấu. Loại cỏ này hay mọc ở vườn mà trẻ con lúc nhỏ chơi thường nhổ rễ có củ bé ti tí màu nâu bấm ngón tay thấy mùi thơm hơi hăng.


Hương phụ là thánh dược chữa Uất khí, Khí kết thành hòn cục trong lồng ngực tức mà mấy bà hay gọi: "Tao tức muốn chết đi được".


Vậy mới hiểu "Đạo" trải dài muôn nơi, trong khoảng đất trời này không chỗ nào không có "Đạo", như Thiên địa kia luôn đối xử công bình, không yêu ghét kẻ nào (Lão Tử).


Còn về các ghi chép về ẩm thực Việt Nam thời tiền thuộc địa, chúng ta có thể kể đến một vài cái tên như sau:


• "Nữ công thắng lãm" của Hải Thượng Lãn Ông: Ẩm thực miền Bắc Việt Nam thế kỉ XVIII


• "Thực phổ bách thiên" của Trương Đặng Thị Bích: Các món ăn của nông dân và hoàng gia ở miền Trung Việt Nam cuối thế kỉ XIX


• "Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam" của Lê Hữu Công: Các món ăn của nông dân và hoàng gia ở miền Nam Việt Nam + 4 món Khmer + 9 món Quảng Đông đầu thế kỉ XX


• Phần Bộ lễ của "Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ" - pho sử đồ sộ nhất về nhà Nguyễn


Ngoài ra, các công thức nấu ăn của người Việt Nam xưa còn tồn tại qua:


• Phần Bộ lễ của "Quốc triều hội điển"


• Các ghi nhớ và ghi chép riêng của hoàng tộc Nguyễn


• Việc lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng dân ca và truyền miệng. Trên thực tế, hầu hết các món ăn truyền thống của Việt Nam mà bạn bắt gặp trên đường phố đều cơ bản không khác gì nhiều so với phiên bản thế kỉ XVIII. Ví dụ, bánh tro hầu như không thay đổi kể từ thế kỉ XVIII.


Hai thanh niên bệnh sinh lý, rlcd, tiết niệu gặp đúng thầy rồi!


Cũng là Lục vị nhưng Sinh hay Thục, gia thêm hay bớt đi 1,2 vị là khác biệt hoàn toàn rồi.


1. Suy giảm ham muốn, tiểu nóng, tiểu buốt, mỏi gối, bốc hỏa, nóng mắt.

=> Lục vị sinh địa + Tứ diệu tán + Ngải diệp, Hoắc hương, Bạch mao căn, Kê nội kim, Kim tiền thảo, Đỗ trọng, Bồ công anh, Bạch tật lê. (Bỏ Hoài sơn, Sơn thù)


2. Rối loạn cương dương, tiểu nhiều, tiểu bọt, mỏi gối

=> Lục vị sinh địa + Ngưu tất, Thương truật, Ý dĩ, Độc hoạt, Đỗ trọng, Ba kích, Ô dược.


Phương thuốc trên giống như tạo một dòng suối mát đi xuống thận bàng quang chi dưới, dòng suối phải lớn để bổ sung cái bất túc không đủ nước (Sinh địa), nước chảy phải đủ mạnh và nhanh (Độc hoạt, Thương truật), lực tản 2 bên cần đủ lớn (Ô dược, Thương truật) để quét những thấp cặn trên đường đi. Thiên hàn thì có thể thêm Quế chi, Thiên niên kiện; Nhiệt thì Tri mẫu, Hoàng bá. Thận khí tốt, khí đi xuống dương vật tốt, thì RLCD sẽ cải thiện.


RLCD có lúc do hỏa kém thì phải dùng Nhục quế, Ba kích ôn ấm từ từ không thái quá, có lúc can khí không xuống phải sơ can thông can khí như Tiêu giao, Tứ nghịch, Sài hồ v.v. Còn bệnh án này là thủy thấp nội uẩn đình lưu, nước ít khí hạ tiêu kém.


Còn trẻ nên hạn chế sắc dục, cửa nghiện là cửa tử đặc biệt là thủ dâm, thận hư thì gần như cái gì cũng hư, từ sức khỏe cho đến tinh thần, thậm chí cả công danh sự nghiệp. "Thận tàng chí" ý chí, tinh thần, nghị lực đều từ đó mà ra, nên người thận hư hay trầm lắng, buồn rầu, không vui, đối diện với cuộc đời bằng tâm thái ấy nên làm gì cũng khó thành.


Phân tích một chút về lưỡi bệnh nhân này:

- Lưỡi bệu nhạt, có hằn răng => Tỳ hư, dương khí hư

- Gốc lưỡi trũng thấp => khí hạ tiêu kém, thận khí kém

- Rêu ở gốc nhày => thấp trọc hạ chú

- Bề mặt lưỡi mềm => Khí trong mạch hư yếu

- Giữa và đầu lưỡi nề mềm => Nội thấp thượng nghịch


(*) Phép trị

Kiện tỳ khí => Tứ quân tử thang

Giáng thấp => Bán hạ, Chỉ thực

Bổ khí thăng khí => Hoàng kỳ, Phòng phong

Lợi thấp, liễm tinh khí => Khiếm thực, Ý dĩ, Mẫu lệ

Bổ thận khí ích tinh => Đỗ trọng, Tục đoạn, Ba kích, Thỏ ti tử

Hóa ứ, thông mạch lên não => Xuyên khung, Hồng hoa


Ps: Uống 20 thang hết mộng tinh rồi.


Bệnh liên quan đến thủ dâm mà khí cơ đang loạn bổ âm, tư âm sớm là sai hết. 


4 năm nay gặp rất nhiều bệnh nhân và đa số là thầy nào cũng bổ âm. Trường phái cụ Hải thượng thì hay dùng Bát vị, Lục vị, Quy thược Lục vị, Hoắc Tiêu giao v.v các thầy bên Trung về còn dùng đến Quy bản, Cao ban long các phương như Đại bổ âm hoàn, Tả quy hoàn v.v thang tới 500, 600 ngàn mà uống vào mệt thêm thôi.


Vấn đề quan trọng ở đây là tinh hư, hỏa ở thận phù ra ngoài, hỏa khí thì xu hướng bốc lên nên làm khí loạn. Thứ 2 là thận tinh hư nên thủy không hàm mộc nên can huyết bị rỗng, can khí sơ tiết kém, hỏa khí vốn loạn nhân can khí sơ tiết kém hiệp cùng làm loạn thêm. Thứ 3 là can tuy sơ tiết khí huyết toàn thân nhưng đa số ảnh hưởng thường nhiều nhất đến tỳ thổ, can bất sơ thổ mà thổ hư, thổ hư thì hay thấp trệ, mạch trở nên không nhu hòa, khí loạn lại càng thêm loạn.


Nên giai đoạn đầu không thể tư âm bổ âm sớm được mà chủ yếu là sơ can giải uất kiện tỳ liễm phù hỏa về thận. Phương tiêu biểu mình hay gia giảm là Tiêu giao tán + Long cốt, Mẫu lệ, Khiếm thực, Đỗ trọng, Thỏ ti tử. Thấp tà nặng, nhiệt bốc nhiều, đi ngoài nát thì bỏ Đương quy gia Đan bì, dịch khô thì thêm Mạch môn, Đảng sâm, Tâm âm hư thì thêm Đan sâm v.v.


"Tinh hư vì hay nghĩ đến dâm ý, mà càng nghĩ đến dâm ý thì càng hư, hai điều này tạo thành một vòng bệnh lý không lối thoát".


KHÔNG BỔ THẬN VẪN CHỮA ĐƯỢC GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH VÀ CƯƠNG DƯƠNG 


Bệnh án thủ dâm 5,6 lần/ tuần trong rất nhiều năm. 


(*) Bệnh án

- Hẹp động mạch, men gan cao

- Trĩ, đại tiện bị nóng rát, có lúc thấy máu.

- Giãn tĩnh mạch thừng tinh, đau lưng gối

- Tinh trùng loãng, khó cương cứng.

- Người hay hồi hộp, lo sợ, run, ngại giao tiếp

- Môi miệng khô khát, hơi thở nóng, miệng hôi.

- Hơi thở ngắn, chịu lạnh kém

- Cơ thể nóng, da khô, tóc cứng, gàu,

- Tiểu đôi hay vàng đậm, da bị ngứa, dị ứng.

- Đau trán lông mày, và 2 thái dương.

- Men gan cao gấp 7,8 lần bình thường


Em này trên diễn đàn yhoccotruyen tìm đến mình. Lúc kê phương trên đó không xem được lưỡi nên kê phương cũng không được chuẩn. Sau khi xem lưỡi và hỏi kỹ trên fb thì chợt nhận ra bệnh em này gốc hiện tại là do thực chứng nhiều hơn hư chứng. 


Chủ yếu là do thấp nhiệt uất ở vị tràng làm đại tiện nóng rát, có lúc ra máu tươi, bị trĩ. Nhiệt này nghịch lên làm cơ thể nóng, hơi thở nóng, môi miệng khô khát, miệng hôi, kinh dương minh bị tắc làm đau ngay trán và lông mày.


Nhiệt này vào máu làm loạn huyết mạch trong máu, dẫn tới can bị uất sơ tiết không được, nhiệt khí đoạn từ gan lên tim bị loạn lên, bồng bềnh bên trong, lưu lượng máu qua tim không ổn định làm người hay bồn chồn, hoảng sợ, lo lắng, ngại giao tiếp. Thấp theo nhiệt nghịch lên đến vùng đầu, ngoài da và tắc kinh can làm đau thái dương, đau đầu, tóc thì khô, nhiều gàu, da thì hay bị mẩn ngứa. 


Uất nhiệt này lắng xuống hạ tiêu làm tiểu vàng nóng, can khí bị nhiệt thấp uất loạn bên trong không đưa khí xuống dương vật làm cương cứng bị kém, thừng tinh bị giãn, khí không dẫn huyết xuống thận làm đau lưng. Xét nghiệm tây y chỉ số men gan tăng cao gấp 7,8 lần cũng là dấu hiệu can kinh bị uất nhiệt không sơ tiết tốt được chứ không phải gốc do thận.


Sau khi xem xét kỹ thì kê em ấy phương bên dưới gia giảm đến đợt thứ 3 thì các chứng gần như ổn định. Hết đau lưng, hết giãn thừng tinh, sáng dây có cương cứng, trĩ và các chứng khác cũng giảm hết nên chia sẽ đến các anh em tham khảo.


(*) Phương thuốc ban đầu. (Sau gia giảm lại theo chứng)


Đẳng sâm 16g

Chích kỳ 16g

Đương quy 12g

Sài hồ 6g

Thăng ma 6g

Trần bì 4g

Cam thảo 4g

Thương truật 8g

Bán hạ 8g

Bạch chỉ 8g

Xuyên khung 8g

Mộc hương 6g

Chỉ xác 6g

Ý dĩ 16g

Kê thỉ đằng 20g

Hoàng bá 6g

Đại hoàng 6g

Đại táo 2 quả

Gừng tươi 3 lát


Đây là phương Bổ trung ích khí giúp can khí sơ tiết bỏ đi Bạch truật, lại kết hợp Tam diệu tán gia thêm các vị Đại hoàng, Chỉ xác, Mộc hương để trừ đi thực, thấp, nhiệt ở đại tràng và hạ tiêu mà bệnh trở nên ổn định.


Được One Read chia sẻ - trình xem tệp tất cả trong một: https://st.simplehealth.ltd/uAJjyu


https://www.facebook.com/luongytronghau


https://suckhoedoisong.vn/bai-thuoc-bo-trung-ich-khi-169167268.htm


KHÔNG BỔ THẬN VẪN CHỮA ĐƯỢC GIÃN TĨNH MẠCH THỪNG TINH VÀ CƯƠNG DƯƠNG 


Bệnh án thủ dâm 5,6 lần/ tuần trong rất nhiều năm. 


(*) Bệnh án

- Hẹp động mạch, men gan cao

- Trĩ, đại tiện bị nóng rát, có lúc thấy máu.

- Giãn tĩnh mạch thừng tinh, đau lưng gối

- Tinh trùng loãng, khó cương cứng.

- Người hay hồi hộp, lo sợ, run, ngại giao tiếp

- Môi miệng khô khát, hơi thở nóng, miệng hôi.

- Hơi thở ngắn, chịu lạnh kém

- Cơ thể nóng, da khô, tóc cứng, gàu,

- Tiểu đôi hay vàng đậm, da bị ngứa, dị ứng.

- Đau trán lông mày, và 2 thái dương.

- Men gan cao gấp 7,8 lần bình thường


Em này trên diễn đàn yhoccotruyen tìm đến mình. Lúc kê phương trên đó không xem được lưỡi nên kê phương cũng không được chuẩn. Sau khi xem lưỡi và hỏi kỹ trên fb thì chợt nhận ra bệnh em này gốc hiện tại là do thực chứng nhiều hơn hư chứng. 


Chủ yếu là do thấp nhiệt uất ở vị tràng làm đại tiện nóng rát, có lúc ra máu tươi, bị trĩ. Nhiệt này nghịch lên làm cơ thể nóng, hơi thở nóng, môi miệng khô khát, miệng hôi, kinh dương minh bị tắc làm đau ngay trán và lông mày.


Nhiệt này vào máu làm loạn huyết mạch trong máu, dẫn tới can bị uất sơ tiết không được, nhiệt khí đoạn từ gan lên tim bị loạn lên, bồng bềnh bên trong, lưu lượng máu qua tim không ổn định làm người hay bồn chồn, hoảng sợ, lo lắng, ngại giao tiếp. Thấp theo nhiệt nghịch lên đến vùng đầu, ngoài da và tắc kinh can làm đau thái dương, đau đầu, tóc thì khô, nhiều gàu, da thì hay bị mẩn ngứa. 


Uất nhiệt này lắng xuống hạ tiêu làm tiểu vàng nóng, can khí bị nhiệt thấp uất loạn bên trong không đưa khí xuống dương vật làm cương cứng bị kém, thừng tinh bị giãn, khí không dẫn huyết xuống thận làm đau lưng. Xét nghiệm tây y chỉ số men gan tăng cao gấp 7,8 lần cũng là dấu hiệu can kinh bị uất nhiệt không sơ tiết tốt được chứ không phải gốc do thận.


Sau khi xem xét kỹ thì kê em ấy phương bên dưới gia giảm đến đợt thứ 3 thì các chứng gần như ổn định. Hết đau lưng, hết giãn thừng tinh, sáng dây có cương cứng, trĩ và các chứng khác cũng giảm hết nên chia sẽ đến các anh em tham khảo.


(*) Phương thuốc ban đầu. (Sau gia giảm lại theo chứng)


Đẳng sâm 16g

Chích kỳ 16g

Đương quy 12g

Sài hồ 6g

Thăng ma 6g

Trần bì 4g

Cam thảo 4g

Thương truật 8g

Bán hạ 8g

Bạch chỉ 8g

Xuyên khung 8g

Mộc hương 6g

Chỉ xác 6g

Ý dĩ 16g

Kê thỉ đằng 20g

Hoàng bá 6g

Đại hoàng 6g

Đại táo 2 quả

Gừng tươi 3 lát


Đây là phương Bổ trung ích khí giúp can khí sơ tiết bỏ đi Bạch truật, lại kết hợp Tam diệu tán gia thêm các vị Đại hoàng, Chỉ xác, Mộc hương để trừ đi thực, thấp, nhiệt ở đại tràng và hạ tiêu mà bệnh trở nên ổn định.


Hành nghề một thời gian có một số điều chia sẽ cảm nghĩ cá nhân.

1. Học y lúc đầu đọc các học thuyết cơ bản, các tác phẩm như Hải thượng y tông tâm lĩnh thấy Đông y dễ, cứ bổ tỳ bổ thận là làm thầy thuốc được. Thật ra không phải, trị bệnh người ngày nay hơn 80% là trị tà, hàn nhiệt, đàm thấp, ứ trở, tỳ hư, can uất là nhiều chứ không có bổ tỳ bổ thận đơn giản được.

2. Mà trị tà thì sách đáng học và nghiên cứu nhất chính là Thương Hàn Luận. Nhưng học THL là một chuyện, mà hiểu được hay không là một chuyện khác, và áp dụng được hay không là một chuyện hoàn toàn khác nữa. Như mình trị cảm ít gặp Quế chi thang, Ma hoàng thang mà đa số là Sâm tô ấm, Nhân sâm bại độc, Bổ trung ích khí gia giảm, người bệnh tới Đông y đa số là chính khí hư, đàm thấp, phế khí uất, tà khí vào sâu. Đàm thấp tỳ hư sao dùng Quế chi thang nhiều táo, tà vào lý sao dùng Ma hoàng thang, vừa lý vừa biểu sao dùng Tiểu sài hồ? Kết hợp với Ma hoàng thang ư? Nhiều khi vài ba vị như Tô diệp, Sinh khương, Hoắc hương, Kinh giới là trị được đa số.

Chưa nói thể trạng người Việt khác người Trung, vì khí hậu không quá khắc nghiệt, da thường mỏng hơn nên cảm nhập hay vào sâu, mà có trị bệnh phát hãn dùng vị nhẹ nhẹ cũng đẩy được ra ngoài. Nhưng điều này cũng tương đối thôi, vì đợt trước vợ mình bị cảm mình vẫn dùng Ma hoàng thang, uống đúng 1 chén là khỏi, nhưng kiểu hàn trực trúng này ít gặp ai vừa bị mà tới Đông y. Xét người Việt thì người ngoài Bắc thì thấy giống người Trung hơn nên phù hợp với thuốc Bắc hơn.

3. Về mạch là thứ quan trọng bậc nhất mà thấy đa số các sách dạy khó áp dụng, các sách bệnh án để lại viết hết sức đơn giản, thậm chí nhiều thầy xem mạch không tốt sao mà trị bệnh được. Đọc sách thầy Dư Hạo mới rõ mạch uất, lâm sàng gặp rất nhiều, rồi xu hướng thượng việt hay hạ hãm đều cực kỳ quan trọng. Ví như cũng là tả quan uất huyền thì cái uất của Sài hồ, Hoàng cầm khác gì Sài hồ, Bạch thược? Rồi khác gì Uất kim, Hương phụ? Rồi khác gì Xuyên khung? rồi uất ở quan lên thốn hay quan xuống xích? Uất mềm hay cứng hay đặc có điểm kết tắc gì ko? v.v "Ngay từ đầu đã đúng đắn thì sao có oan sai". Nên học đúng hiểu đúng là điều quan trọng. 

4. Về dược cũng là thứ quan trọng bậc nhất. Điều gì khó nhất khi làm thầy thuốc? Chính là dụng dược. Mà dụng dược thì phải hiểu dược, phân biệt được dược, biết rõ dược ứng với mạch, và khi phối vào phương thuốc phải rõ được đường đi, sự tác động phối hợp của dược, không thể nhìn công dụng 1 vị mà đánh giá 1 phương được. Muốn vậy thì đầu tiên chúng ta phải nhìn, sờ, nếm khí vị, phải biết sinh ra và lớn lên ở đâu, thuộc lá thân rễ hay hạt, sắc vị như nào, đối ứng với cơ thể ra sao, phối với vị khác làm tăng tác dụng hay mất tác dụng v.v. Mình hay chia sẽ về dược hi vọng giúp ít thêm mọi người có cái nhìn sâu hơn, mở ra tư duy hơn, đa số là kiến thức mình cảm ngộ riêng viết ra.

Cảm ơn mọi người!


Hai bệnh nhân bị Trĩ 

BN 1: Bổ trung ích khí + Phì 3 dược + Hòe hoa tán + Hoàng cầm, Ý dĩ sao. 10 thang giảm, 20 thang co lên.

BN 2: Bổ trung ích khí + Bạch thược, Ý dĩ sao, Mộc hương, Hậu phác, Đại hoàng, Đan sâm, Xương bồ, Tỳ bà diệp. (Bỏ Đương quy). 15 thang co lên.


Stepphen Nguyen

Phì 3 dược là vị gì hả anh?

35 w35 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Stepphen Nguyen Thương truật, Xuyên khung, Kê thỉ đằng em.


Lưỡi bệnh nhân ở xa bị dạ dày, đại tràng, xương khớp, đau lưng gối và đĩa đệm.


- Đầu lưỡi đỏ => Thượng tiêu có nhiệt

- Giữa lưỡi đi xuống rêu trắng mỏng => Trung tiêu, hạ tiêu hàn.

- Hình trũng thấp xuống => Tỳ khí, Thận khí hư

- Dưới có hiện tượng nề nề => Nội thấp

- Chất lưỡi non, yếu => Dương khí suy


Cùng với chứng nhiệt miệng, hơi thở nóng hôi, bụng hay lạnh, trướng sôi, đi ngoài phân nát lỏng, chân hay lạnh đều khớp với lưỡi.


(*) Thượng nhiệt, hạ hàn, tỳ thận dương hư.


Bài thuốc: Bán hạ tả tâm thang + Hương sa lục quân gia Phá cổ chỉ, Đỗ trọng.


Uống xong các chứng đều cải thiện. Bệnh nhân thấy có duyên nên nhờ trị giúp thêm mẹ đang bị u não, đã mổ 1 lần và đang đợi xạ trị.


Hình lưỡi hàn thấp tụ lại thành hình quả thận.


Sáng khám cho 1 chị bệnh nhân từ Đông Nai ra bị Đại Tràng, cứ ăn lạ là đi ngoài, mấy món như bưởi, mướp, bắp cải hầu như không ăn được, ăn vào là đi ngoài và lạnh hết vùng bụng. Đi khám Tây y kết quả bình thường, đại tràng bình thường.


Xem mạch phát hiện

- Mạch tỳ hơi trầm nhược và uất nhẹ

- Mệnh môn trầm tế nhược

- Can huyền hơi cấp ấn sâu nhược

- Tâm mạch hơi nhược


Tỳ trầm nhược => Bạch truật, Bạch linh

Tỳ nhược tâm nhược => Đảng sâm

Uất nhẹ => Mộc hương, Hậu phác

Mệnh môn trầm tế nhược => Nhục quế, Phá cố chỉ

Can huyền hơi cấp => Bạch thược, Cam thảo, Sài hồ

Ấn sâu nhược => Đương quy


Quay qua nhìn vợ bảo, đây là chứng của Chân Nhân Dưỡng Tạng Thang gia giảm rồi. Bệnh này điểm mù ở mạch Can huyền cấp, gân bắt đầu cứng rồi không có Bạch thược chữa không hết. See less


Bệnh sử thoái vị đĩa đệm, thoái quen tự sướng nhiều.

Nay bệnh ổn định tăng 2kg, xin chia tay thầy thuốc.

- Rêu trắng vùng hạ chủ về thủy thấp nội uẩn

- Trong rêu trắng lại có chỗ nề cao mà căng chủ thấp và khí uất bên trong

- Vùng đĩa đệm thì bị gãy, vùng hạ tiêu thị trũng thấp, tiểu vàng bọt nóng mà rêu không vàng rõ là thận khí bị suy, chính khí không kháng trục nổi tà khí 

- Trong vùng nề căng sắc lưỡi lại sẩm tiểu nóng chứng tỏ huyết có nhiệt.

=> Tứ diệu tán + Đỗ trọng, Tục đoạn, Tang ký sinh, Cẩu tích, Kê huyết đằng, Đan bì. 

Sau gia thêm Quy, Khung bội ngưu tất dẫn xuống để trị giãn tĩnh mạch chân.

Nhìn kỹ hơn chúng ta có thể thấy vùng rìa hơi nề, sắc không đỏ sáng mà hồng tối, sáng ngủ dậy uể oải, mệt mỏi thì gốc là do thấp khí đình lưu cản trở sự thăng phát dương khí làm mệt mỏi chứ không phải do tỳ hư hay khí hư.


Đúng là lâm chứng không khỏi đa số do phục đàm, thêm Bạch giới tử, Tạo giác thích rêu nhày hóa ngay!

Xưa nghĩ 50, 70 vị thuốc là kê phương trị bệnh được rồi, sau lên 100 vị. Vì chữa đa khoa, bệnh đa dạng nên dần lên 150 vị, dần dần nhiều ca phức tạp, nhiều chứng mạch phức tạp nên cần nhiều vị đặc trị hơn cuối cùng giờ vượt ngưỡng 200 vị rồi.


Nguyễn Hiếu

Quả lưỡi âm hàn quá Thầy nhỉ.

6 w6 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Nguyễn Hiếu Lưỡi này ko có hàn, chủ yếu đàm thấp trọc ẩn phục lâu ngày làm huyết mạch ứ trệ thận khí yếu dần thôi.


2 tuần nay gặp tới 12 bệnh nhân bị u các thể loại.


2 tuần nay gặp tới 12 bệnh nhân bị u các thể loại. 

Khuyên mọi người không nên ăn nhiều trái cây, kể cả các loại nghĩ là lành tính như Táo đỏ, Kỷ tử, Hà thủ ô v.v. Trái cây tính hàn làm hao tổn dương khí tỳ thận, trợ ẩm thấp, lâu ngày dễ làm khí huyết ứ trệ, ẩm thấp đàm theo huyết mạch kết tụ lại mà sinh u sinh nang thôi. Ngày chạy bộ vận động cho ra mồ hôi, giúp khí huyết lưu thông, giảm stress sao mà bị u được. Lười vận động, stress, ăn đồ mát, đồ béo bổ thái nên mới dễ bị u thôi.

Bệnh này cần xác định hư nhiều hay thực nhiều mà thường dùng 1 trong các vị và phương sau. 

Nhuyễn kiên, hóa đàm => Côn bố, Hải tảo, Mẫu lệ

Tán kết, thanh nhiệt, giải độc => Liên kiều, Hạ khô thảo

Hóa đàm, tuyên phế => Bối mẫu, Cát cánh

Dưỡng âm nhuận táo lợi hầu => Huyền sâm

Giải độc, kháng ung => Bạch hoa xà, Bán chi liên

Thủy dịch kết ở tử cung, buồng trứng => Quế chi phục linh hoàn, Tứ linh tán

Huyết ứ hàn ngưng => Thiếu phúc trục ứ thang

Huyết ứ, đàm kết độc =>Tiên phương hoạt mệnh ẩm

Âm huyết hư hỏa bốc đàm tụ => Nội tiêu loa lịch hoàn

Can khí uất kết => Tiêu giao tán

Trên xuống dưới đều u => Trị theo huyết mạch


Vuong Trinh Cong

Chẩn đoán qua thăm khám trực tiếp hay chỉ thiệt chẩn hả em?

14 w14 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Vuong Trinh Cong 5 bệnh nhân khám trực tiếp anh ah.

14 w14 weeks ago

Reply

Vuong Trinh Cong

Trọng Hậu nhìn hình em khoanh chỗ u/nang/suy giáp thấy rõ ghê, hay quá.


Dương Thảo Ly

sao HTO lại xếp vào trái cây ạ

14 w14 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Dương Thảo Ly Ah, Hà thủ ô anh nói thêm vào tại nhiều ng tự ý mua uống mà nó là thuốc bổ âm.

14 w14 weeks ago

Reply

Dương Thảo Ly

Trọng Hậu vậy hoa quả thông thường như ổi táo chuối ... thì sao ạ


Văn Minh Tú

Việc ăn trái cây, e thấy đó như 1 trào lưu, góp công lớn của "chuyên gia mạng" . Em gái em, chuyên cấp đông các loại trái cây và xay thành smoothie uống thay cho việc ăn uống, nó cứ nghe tụi youtube, tiktok.... Em cảnh báo vô vàn lần ko nghe, hq đi khám thì phát hiện thấy có u ở ngực

13 w13 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Văn Minh Tú Chuẩn rồi ấy em, anh gặp nhiều bệnh nhân bị u ngực,u nang buồng trứng thì phát hiện ra đa số đều ăn nhiều trái cây em.


Mỹ Thường

Hay quá anh ơi. Vậy mà e khuyên họ toàn nói e nói bậy. Haha nên nay gặp đúng người đồng quan điểm với e

13 w13 weeks ago

Reply

Trọng Hậu

Mỹ Thường Vì ăn trái cây nhiều ko bị bệnh liền, mà cũng tùy cơ địa mà có người bị có người không nữa. Người cơ địa nóng, người ăn thầy bình thường, người nghĩ bổ sung vitamin tốt thì họ phản đối thôi em.

13 w13 weeks ago

Reply

Mỹ Thường

Trọng Hậu dạ em hiểu mà. Em mê lĩnh vực sk nên nghiên cứu cũng nhiều, mà gặp thầy thuốc như a em rất tâm đắc. E thích thầy thuốc hiểu gốc rễ vấn đề❤️


Ông hầu như không uống thuốc bắc, xưa có bị sỏi thận 11mm, mình kê thuốc uống hết thì nghĩ tới giờ. Nay ho đàm nhiều quá nên bỏ thuốc Tây của mẹ sang nhờ thuốc Bắc của con. Tết nhớ xem mạch ông thấy Hồng hoạt, tuy Hồng nhưng thành mạch không quá cứng, ăn nhiều, ăn nhanh đói, kèm mỡ máu.

Về lưỡi:

- Rêu nhày chủ về thấp

- Vàng là nhiệt

- Phần đầu lưỡi thì nề căng, xu hướng đẩy lên

- Chót lưỡi thì uất đỏ

- Sắc lưỡi thì hồng đỏ

Đây là hiện tượng đàm thấp và nhiệt theo khí nghịch lên vùng hung tâm phế. Thấp đàm nhiệt bức vào thành mạch máu làm mạch căng to ra gây mạch hồng, nhiệt khí bị uất vào tâm mạch làm đầu lưỡi đỏ mà hay nhiệt miệng, viêm miệng. Khí nghịch từ dưới đi lên phế mà dẫn tới ho, đàm. Đàm thấp nhiệt đi qua tim làm tim hồi hộp, đập nhanh, lâu lâu nhói tim. Hình lưỡi bên trên nề căng, đàm nghịch như vậy không có Bán hạ chất nặng thì không giáng đẩy xuống được, khí theo xung mạch nghịch lên ko có Trúc nhự thì không đưa xuống được.

Đây là lưỡi điển hình của chứng Hoàng liên ôn đởm thang gia:

Đan sâm, Xương bồ giáng đàm ứ tâm mạch

Long cốt, Mẫu lệ chất nặng liễm khí hạ nguyên, liễm mồ hôi.

Kim ngân, Liên kiều chất nhẹ, tán nhiệt uất khí phận của tâm phế.

Ngũ vị liễm tâm phế bị nhiệt khí làm tán ra gây đỗ mồ hôi.

Ít Đỗ trọng, Tục đoạn cùng Long cốt, Mẫu lệ cầu dương trong âm.

Bốc cho ba 10 thang mà uống có 2 thang là mẹ bảo giảm gần như hết rồi. Vậy mà cả năm nay cứ uống thuốc Tây suốt.


Hình lưỡi của thấp khí đi sau 15 thang thuốc trị Axic uric, mỡ máu và huyết áp cao.

- Chất lưỡi bên trong đỏ, hơi thiên tím, có điểm ứ, ăn nhiều. 

=> Hỏa khí thịnh, kèm ứ huyết nhẹ. Tuy ko xem mạch nhưng cũng đoán được mạch thiên hồng.

- Rêu trắng nhày gần hết lưỡi, lại mỡ máu cao, axic uric cao, miệng đàm, đại tiện lỏng.

=> Thấp khí trong máu thịnh.

- Vùng rìa lưỡi, và mặt lưỡi có hiện tượng lòi lỏm ko phẳng đều, lại huyết áp cao, mỡ máu.

=> Khí cơ bị uất trệ, nguyên nhân do thấp khí và cả mỡ máu bám vào thành mạch làm trở trệ khí cơ.

Chứng tiện lỏng mà ăn nhiều, ăn ngon này là thấp khí chủ yếu trong máu, thấp nhiều làm nhuận ướt đại trường gây tiện lỏng. Nếu do tỳ hư lưỡi xu hướng bệu to ướt, còn thấp trong vị nhiều sẽ có xu hướng chán ăn, nếu kèm trào ngược, lưỡi vùng vị lên đầu lưỡi sẽ có xu hướng nề căng đi lên vùng đầu lưỡi. (Bán hạ)

(*) Bệnh án

- 67t, 1m55, 62kg, HA 150/110

- Axic uric cao, mỡ cao cả Trygl và Chol

- Thoái hóa đốt sống lưng, cổ, đau vai tê chân

- phì tiền liệt, đi ko hết, tiểu đêm

- Miệng đàm, đại tiện lỏng

- Ăn ngon, ăn nhiều, phải hãm

- Thích uống bia, uống rượu sau ăn

Đỗ trọng 12g

Tục đoạn 12g

Tang ký sinh 12g

Ý dĩ 20g

Tỳ giải 20g

Rễ gắm 30g

Độc hoạt 12g

Đan sâm 20g

Xuyên phá thạch 40g

Râu ngô 20g

Kê huyết đằng 20g

Chích cam thảo 4g

Mẫu lệ 20g

(15 thang)

Sau 15 thang thuốc rêu trắng nhày dần hóa nên hết đại tiện lỏng, đặc biệt vùng giữa lên đầu lưỡi hết nên miệng hết đàm. Lưỡi chỗ lòi chỗ lỏm dần căng lên, hiện tượng đau lưng gối, tê bì cũng dần hết.

Sắc trắng của Ý dĩ, Tỳ giải chuyên lợi thấp khí phận.

Dây gắm, Kê huyết đằng, Xuyên phá thạch thân leo nên kiêm thêm thông kinh lạc.

Râu ngô chuyên gọt dũa mảng bám thành mạch, thêm Địa long thì càng tốt.

Độc hoạt cùng thận khí 3 dược chuyên bổ thận khí. 

Sách thầy Dư Hạo hay dùng Uy linh tiên nhưng mình thấy Uy linh tiên chuyên xuyên thấu cả huyết phận và vận tốc đi nhanh quá mà nhiều khi bỏ lại thấp khí. Nên dùng Độc hoạt lực sẽ hòa hoãn hơn, đẩy thấp khí từ từ xuống để các vị khác thải ra ngoài.


Bài 16: ĐƯỜNG ĐI ĐIỂN HÌNH CỦA PHƯƠNG THUỐC TRỊ HUYẾT ÁP THẤP - THIẾU MÁU NÃO - RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH. (Bổ Trung Ích Khí)


Bài 16: ĐƯỜNG ĐI ĐIỂN HÌNH CỦA PHƯƠNG THUỐC TRỊ HUYẾT ÁP THẤP - THIẾU MÁU NÃO - RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH. (Bổ Trung Ích Khí)


Máu muốn lên não, hay vùng vai gáy thì phải đi lên tim trước. Mà máu muốn lên được tim thì cần phải có áp lực khí trong ống máu để đẩy máu đi. Giống cách chúng ta thổi ống nước, nước muốn đi xa là nhờ áp lực khí do chúng ta thổi vào. Nên nhiều người tuy mập, xét nghiệm chất lượng máu tốt, nhưng sắc mặt thì nhợt nhạt, cơ thịt mềm nhão là vì thiếu khí đẩy máu lưu thông.


Chữ KHÍ này chính là điểm mù lớn nhất của tây y trong vấn đề điều trị bệnh.


(*) Vậy Khí này từ đâu ra?


Với Tây y thì là điểm mù, còn nhiều bác sĩ Đông y thì giải thích là từ Tỳ khí, Thận khí. Nhưng dù có giải thích như nào đi chăng nữa cũng hết sức mơ hồ và kém thuyết phục.


Quan điểm khí của tôi giải thích lại như sau:


- Khí là một quá trình tương tác của nhiều cơ quan phối hợp đồng bộ với nhau. Khi ăn vào bụng, thì dạ dày co bóp chúng ta gọi là VỊ KHÍ, mỗi nhịp co bóp sẽ tạo ra một dòng khí đi xuống ruột, dòng khí này lại hỗ trợ giúp dòng khí của ruột nhu động mà hấp thu dinh dưỡng, mỗi dòng khí do ruột nhu động hấp thu lại giúp đẩy dinh dưỡng vào máu đi về gan. Quá trình đẩy này có thể xem là TỲ KHÍ.


- Gan lại co bóp sinh ra dòng khí đẩy huyết lưu thông gọi là CAN KHÍ, ở trên PHẾ KHÍ hít oxy vào phổi đi qua màng phổi vào máu, lại giáng oxy xuống kết hợp với can khí và tỳ khí mà chuyển hóa thành huyết (HUYẾT = Protein + Fe + B12, B9 + O2), phế khí lại kết hợp với TÂM KHÍ đẩy huyết đi lưu thông nuôi dưỡng cơ thể, cuối cùng được THẬN KHÍ bên dưới xoay lọc bài tiết chất độc thải ra ngoài, độ xoay của thận khí bên dưới càng mạnh thì thấp độc bài ra ngoài càng nhiều, tốc độ lưu thông máu càng nhanh mà giúp các tạng phủ khác.


1️⃣ Khí mà chúng ta thay đổi được đó chính là cách chúng ta ăn uống và hít thở sẽ tác động đến chức năng có bóp và nhu động của vị trường (Vị khí, Tỳ khí), và khả năng hít Oxy của Phế khí, giúp khí đẩy huyết mà ít nhiều điều chỉnh được Tâm khí.


2️⃣ Khí mà chúng ta không thay đổi trực tiếp liền được đó chính là thận khí, can khí. Vì nó phụ thuộc vào gene, vào cơ địa của mỗi người mà dựa vào tạng người, xương khớp, răng tóc, giọng nói Đông y chúng ta có thể xác định được sự khỏe mạnh của mỗi cá nhân.


Giải thích kỹ chỗ này để chúng ta hiểu rằng với người HA thấp, thiếu máu não, khí huyết bị kém, hay mệt mỏi chúng ta cần dựa vào việc ăn uống, vận động hít thở để điều chỉnh vị khí, tỳ khí, phế khí là cách trị gốc. Bệnh nặng, suy nhược quá thì có thể mượn sức thuốc để giúp đỡ trong ngắn hạn.


(*) Về thuốc phương trên chính là đường đi của các vị thuốc dẫn khí huyết lên não trong đó Đương quy, Hoàng kỳ, Đẳng sâm là 3 vị thuốc chính đổ khí huyết vào ống mạch và đẩy khí huyết lên tim, não, vai gáy. Đau vai gáy, đau đầu thì có thể gia thêm Xuyên khung. Nhưng đây thường chỉ là cách trị ngọn vì bỏ thuốc thì nhiều khi khí huyết lại tụt xuống.


Lúc này chúng ta cần xác định thêm là tại sao khí huyết không lên được não. Tại sao áp lực khí không vào lòng mạch, tại sao huyết lại không sinh ra? Khi đó thì đại đa số thường do tỳ vị hư yếu, thực ẩm thấp tích trong ruột dạ dày làm nhu động ruột giảm gây trướng bụng khó tiêu, làm sự hấp thu dinh dưỡng kém, không sinh ra được máu, nhu động của dạ dày và ruột không đủ sinh ra khí, làm áp lực khí trong lòng mạch kém đi. Nên chữa ở đường ruột mới là chữa gốc.


(*) Lúc này:


- Gia các vị bổ tỳ vị giúp tăng khả năng tổng hợp protein ở ruột non như Bạch truật

- Tăng nhu động ruột dạ dày, giúp làm sạch đường ruột, bài đi ẩm thấp, thực tích như Trần bì, Mộc hương, Chỉ xác.

- Bụng nóng do nhiệt khí uất thì gia Sài hồ, Thăng ma thì thành phương Bổ trung ích khí

- Hay cáu gắt dễ giận gia thêm Hương phụ, Uất kim.

- Đoản hơi thở ngắn thì bội Sâm Kỳ gia Ngũ vị

- Khó ngủ, mất ngủ, hồi hộp do tâm khí tán thì gia Táo nhân mà giảm đi các vị lý khí.

- Hoa mắt đau đầu, đau theo nhịp đập, lưỡi có điểm ứ thì gia Hồng hoa, Xuyên khung, Xích thược

- Viêm mũi dị ứng, mũi nghẹt thì gia Cát cánh, Tân di, Thương nhĩ tử.

- Bụng lạnh thì gia Can khương

- Dương khí kém đau lưng, tiện lỏng thì gia thêm Phụ tử, Phá cố chỉ.

- Đại tiện lỏng trong thực chứng mới phát thì hay gia Thương truật, Hậu phác, Bạch linh bỏ Đương quy.

- Thực chứng thì hay bị kèm uất nhiệt gây trĩ, đại tiện nóng thì hay gia thêm Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá hay Đại hoàng.

- Trong hư chứng lâu ngày đa số thường không nóng thì hay gia thêm thuốc liễm tỳ tinh, hóa thấp như Hoài sơn, Khiếm thực, Ý dĩ, Biển đậu.

- Khí hư hạ hãm, không hóa được thủy gây tiểu nhiều thì hay gia thêm Ô dược.


(*) Ở đây có vị Phụ tử như hình vẽ là ý nói lấy giáng để thăng, nhờ tính ấm nóng chạy mà đẩy khí lưu thông, hỗ trợ cho Bạch truật giáng ẩm thấp xuống nhanh đến thận, thông qua thận mà bài xuất ra ngoài từ đó khí huyết lưu thông, khí hành thủy mà tiểu trong dài, ôn hóa được tỳ thận mà đại tiện vàng sáng, dương khí cũng nhờ đó mà thăng phát lên.


📌 Thận trọng các vị ôn dương, bổ khí, lý khí thì dễ làm khô ráo đi tỳ âm, hại đi chân huyết. Nên trường hợp nặng về can thận âm hư, chân âm chân huyết không đủ thì cần suy xét dùng thận trọng. Lúc ấy phải gia thêm thuốc dưỡng âm huyết tả khí như Thược, Thục giảm đi thuốc ôn dương như Khương, Phụ; thuốc lý khí như Hương, Bì; thuốc thăng phát như Thăng, Sài, Kỳ. Thậm chí không thể dắt thuốc lên được như phương trên mà phải quay ngược xuống, lấy giáng để thăng như các phương Bát vị, Thận khí gia giảm.


Chi tiết như ảnh!


Tham khảo thêm phương Bổ Trung Ích Khí.

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1521842574835447&id=100010291566835&mibextid=Nif5oz See less


Hoa Tuyet Bay

Em có 1 bệnh nhân bi mất ngủ thiếu máu não nguyên nhân là do tình chí thất điều gây bệnh dạ dày sắc da vàng.Bác sĩ đầu tiên kê bổ trung ích gia giảm nhưng mà sau em sửa thành tiêu dao tán+lục vị quy thược gia giảm

1 ya year ago

Reply

Trọng Hậu

Hoa Tuyet Bay Mất ngủ lâm sàng hay gặp do Can uất không sơ tiết tốt ấy em nên phương Tiêu Giao là tiêu biểu điển hay của việc trị mất ngủ hay gặp


Tuyên Đinh

Thực bài bổ trung này vô cùng hiệu quả. M từng chữa thành công rất nhiều ca bệnh từ bài này gia giảm. bệnh trĩ, dạ dày, đại tràng, đầy hơi, trướng bụng, mỡ máu, HAT, tê bì tay chân, mệt mỏi, đoản hơi yếu sức, cảm mạo, viêm mũi dị ứng, xoang, đau đầu do phong hàn, thiếu máu, đau cổ vai gáy, sốt, viêm họng, amidan...

1 ya year ago

Reply

Trọng Hậu

Tuyên Đinh Cùng 1 gốc do trung khí suy! 👍👍

1 ya year ago

Reply

Vĩnh Minh

Trọng Hậu nói đến trung khí hạ hãm thì chỉ có đông y là số 1 thầy hỉ 😃

1 ya year ago

Reply

Vĩnh Minh

Tuyên Đinh E TỪNG CHỮA CA YẾU SINH LÝ BẰNG BỔ TRUNG 😃

1 ya year ago

Reply

Trọng Hậu

Vĩnh Minh Chuẩn anh. Vì liên quan đến khí mà, khí thăng, thơm, cay, tán, phù thì chỉ có đông y thôi


Hưng Nam Dược

  · 

Úi e đang có ca như này, nhưng e đang đánh vào tỳ vị, chưa dùng thuốc

1 ya year ago

Reply

Trọng Hậu

Anh Hưng Dưỡng Sinh Thuốc Nam có Đinh lăng bổ khí trợ khí rất tốt anh.

1 ya year ago

Reply

Hưng Nam Dược

  · 

Trọng Hậu dạ , e cảm ơn thầy


Le Han

Xin hỏi trọng hậu chút ạ. Lý do vì sao mà khi thức thì có ảnh hưởng nhẹ còn nằm xuống hơi lạnh một chút là đau điếng luôn. Chỗ nào bị lạnh là đau ngay lập tức trừ vùng đầu mặt.Cội nguồn là vì đâu .Cảm ơn ạ

1 ya year ago

Reply

Edited

Trọng Hậu

Le Han Không thông tất thống ấy anh. Khi thức khi hoạt động thì can đẩy khí huyết lưu thông, nên sẽ thông suốt. Còn khi nằm, khi ngủ máu huyết từ chi quay về tàng ở can, nên huyết mạch sẽ ít thông phát bên ngoài, chỗ bị đau từ đó mà trở nặng hơn.

1 ya year ago

Reply

Le Han

Trọng Hậu .cảm ơn ạ vậy giải pháp là bổ can huyết như thế nào ạ


Suy nhược cơ thể, tạp bệnh lâu năm và ứng dụng bài Bổ Trung Ích Khí (BTIK)

✏️Bài 7: Bổ Trung Ích Khí

Có nhiều người luôn cảm giác mệt mỏi không khỏe trong người như suy nhược cơ thể, thiếu hơi mệt mỏi, sợ gió sợ mưa v.v Nhưng khi đi khám bệnh tổng quát Tây y thì không có bệnh, gan thận tim đều bình thường, mọi thứ đều bình thường. Với Đông y thì đa số họ là do KHÍ bị bệnh.

Vậy Khí là gì? 

Tại sao lại bệnh? 

Tại sao xét nghiệm Tây y không ra?

Ví dụ về Huyết - Áp cho mọi người dễ hiểu. Huyết là máu, là hữu hình; Áp là áp lực máu, là vô hình. Khi truyền máu vào cơ thể, bác sĩ để bình máu lên cao là muốn tăng Áp lực để đẩy máu đi xuống vào cơ thể, điều ấy đồng nghĩa nếu không có Áp lực thì máu sẽ không di chuyển. Với Tây y thì bác sĩ chỉ chữa thiếu máu thôi, nhẹ thì uống vitamin B9, B12, Fe, ăn thịt bò, tôm, cà rốt, củ dền v.v. Nhưng phần lớn bệnh nhân áp dụng ăn như vậy nhưng không tăng máu là tại sao? Vấn đề ở đây là làm sao tăng ÁP LỰC MÁU, chứ không phải chỉ bổ máu, mà làm sao để tăng áp lực máu nội tại của cơ thể thì Tây y khó điều trị được ngoài việc cang thiệp bằng thiết bị máy móc.

📌 Trong Đông y ÁP LỰC MÁU thuộc KHÍ.

Khí là một quá trình tương tác của nhiều cơ quan phối hợp đồng bộ với nhau. Khi ăn vào bụng, thì dạ dày co bóp (VỊ KHÍ), mỗi nhịp co bóp sẽ tạo ra một dòng khí đi xuống ruột, dòng khí này lại hỗ trợ giúp dòng khí của ruột nhu động mà hấp thu dinh dưỡng, mỗi dòng khí do ruột nhu động hấp thu lại giúp đẩy dinh dưỡng vào máu đi về gan (TỲ KHÍ), CAN KHÍ lại co bóp sinh ra dòng khí kết hợp với tỳ khí mà chuyển hóa dinh dưỡng, PHẾ KHÍ hít oxy vào phổi (Hít sâu thì khí nhiều oxy), lại giáng oxy xuống mà chuyển hóa thành huyết (HUYẾT = Protein + Fe + B12,B9 + O2), lại được TÂM KHÍ đẩy huyết đi lưu thông nuôi dưỡng cơ thể, cuối cùng được THẬN KHÍ bên dưới thanh lọc bài tiết chất độc thải ra ngoài.

Theo kinh nghiệm bản thân, Can Khí đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quá trình tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng này. Chức năng giáng của vị, chức năng thăng của tỳ đều nhờ vào tính sơ tiết (sơ thông, thăng phát, phát tiết) của can. Cơ thể có hấp thu hay không không phải đơn thuần là bổ tỳ vị cho khỏe, mà quan trong can phải sơ tiết điều hòa, không mạnh cũng không yếu để giúp máu huyết vận hành đi nuôi dưỡng tỳ vị, lại giúp sản xuất mật cho đởm mà hỗ trợ tiêu hóa (Can khí chức năng rất rộng). Còn Thận khí bên dưới như cái máy xoay không ngừng nghĩ, tốc độ xoay càng điều hòa thì máu huyết lưu thông càng ổn định, chất độc trong máu được làm sạch, máu sạch lưu thông nuôi dưỡng cơ thể, con người càng khỏe mạnh. Nên phác đồ điều trị trong đông y cho bệnh suy nhược nặng, tạp bệnh lâu năm trị gì thì trị, cuối cùng phải bổ thận khí, vì đó là Khí TIÊN THIÊN, căn bản của sinh mệnh. Còn Vị khí, Tỳ khí, Can khí, Phế khí, Tâm khí là Khí HẬU THIÊN.

Nên nếu bệnh nhân bị thiếu máu do thiếu ăn, thiếu chất thì ăn nhiều chất vào, bổ sung vitamin vào là tăng máu thôi. Còn nếu ăn dư chất, bổ sung vitamin, Fe v.v mà không tăng máu thì do bị thiếu Áp, nghĩa là do cái KHÍ quá trình trên có vấn đề. Và vấn đề của thầy thuốc Đông y ở đây là phải biết nó nằm ở đâu mà chữa trị. Ví dụ bạn bị viêm dạ dày thì dạ dày sẽ co bóp kém, dẫn đến áp lực khí kém, thì phải chữa ở dạ dày; viêm gan, nan gan thì can khí sẽ uất trệ suy yếu nên phải chữa ở gan; hay mạch máu bị ứ tắt làm khí không thông thì phải làm thông mạch máu, còn tạp bệnh lẫn lộn phải có biện chứng, phác đồ v.v. 

Trong Đông y có hai bài thuốc bổ nổi tiếng, một bài là Kim Quỹ Thận Khí để bổ khí Tiên thiên, một bài là Bổ Trung Ích Khí để bổ khí hậu thiên. Hôm nay nói về bài:

📌 Bổ Trung Ích Khí


Bài thuốc BTIK là gồm bài Tứ Quân Tử Thang (link dưới) bỏ Bạch linh vì vị đạm nhạt thấm hút dọc xuống làm cản trở sự thăng phát bốc lên của khí; gia Đương Quy Bổ Huyết Thang có vị Hoàng kỳ bổ khí lực mạnh giúp thăng dương khí của Can Tỳ; Đương quy giúp hòa huyết mạch nhuận tỳ thổ làm đất đai tươi nhuận tránh sự cương táo thái quá của Bạch truật; Sài hồ thăng dương khí can đởm, Thăng ma thăng dương khí của tỳ vị, hai vị này chất thì nhẹ rỗng, khí thì thanh, nó xúc tác kích thích dẫn đạo để giúp cái khí Đẳng sâm, Hoàng kỳ, Trần bì bốc lên. Thăng ma thì xới đất (Tỳ vị), khơi hãm trệ cho đất tươi xốp mà bốc hơi lên; Sài hồ thì xới rễ cây cắt tỉa cành lá khô héo làm thông thủy đạo mà cây lá thăng phát xanh tươi, lúc này đất đai màu mỡ tươi xốp mà chức năng tỳ vị sẽ khôi phục. (Tỳ vị thuốc hành Thổ).

Về mặc YHHĐ, Thăng ma giúp khử ứ, giải độc, giảm đau, giải nhiệt trong dạ dày và ruột. Nhiệt này chủ yếu do bị thức ăn chèn ép tích tụ không thông, lúc này trong mạch máu cũng bị tắt nghẽn, bị chèn ép gây ứ trệ làm máu không đến nuôi dưỡng được, nên vị Hoàng kỳ giúp tăng áp lực máu của Đương quy giúp máu được thông, Sài hồ dẫn đạo tán những bọt khí ứ trong máu làm tăng tác dụng hòa huyết thông mạch máu của đương quy, lại sơ thông dẫn đạo giúp Hoàng kỳ, Đương quy tăng tác dụng chuyển hóa dinh dưỡng từ ruột non đến gan mà sinh huyết, Sài hồ lại giúp giải cái nhiệt bốc lên sinh nóng ở trên. Đẳng sâm thì tăng tác dụng hấp thu ở ruột non, Bạch truật giúp chuyển hóa protein, Cam thảo thì chống loét giải độc, Trần bì giúp dạ dày tiết dịch vị mà giúp tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng. Ngoài ra Sâm Kỳ gọi là thuốc bổ khí, uống vào làm nhịp tim tăng lên, giúp tốc độ lưu thông máu trong động tĩnh mạch chủ tăng, áp lực máu tăng, đây gọi là bổ ÁP để tăng Huyết. 

📍 Quá trình bệnh sinh

Bài thuốc BTIK được lập ra để giúp tăng quá trình chuyển hóa thức ăn như trên. Vì khi ăn uống khó tiêu, thì thức ăn bao giờ cũng tích trong dạ dày và đường ruột, khi thức ăn tích sẽ sinh hơi, mà hơi không đi xuống điều hòa mà đi ngược lên sẽ dẫn đến ợ hơi, còn hơi mà đi xuống được thì sẽ thành xì hơi mà thối, khi hơi không đi lên không đi xuống được sẽ dẫn tới trướng bụng, nếu hơi này mà ẩm thấp nhiều nước sẽ sôi ruột, còn hơi này nhiều nhiệt sẽ nóng bụng, mà khi cực nóng sẽ phát nóng sốt bức rứt, môi miệng lỡ loét v.v Bên cạnh đó khi thức ăn tích lâu ngày, thì ruột sẽ bị chèn ép mà kém nhu động làm tạo ra môi trường kỵ khí mà sinh vi khuẩn, tiêu biểu là vi khuẩn HP. Mặc khác thức ăn chất độc tích trệ sẽ là mạch máu trong ruột sẽ bị ứ trệ theo, gọi là khí trệ dẫn đến huyết ứ, lúc này các khí độc vào máu sẽ bị kết lại ở các chỗ ứ trệ này, mà khí độc (Khí gốc N, P, S) vào máu lại không được gan chuyển hóa thành muối sẽ dẫn tới gan bị nhiễm độc làm nóng gan, men gan cao, viêm gan B, mụn nhọt, người nóng sốt, đỗ mồ hôi, tính tình trở nên dễ giận cáu gắt, tinh thần u uất, không thư thái v.v. 

Khi ruột bị chèn ép thức ăn không đi xuống sẽ dẫn đến táo bón, đa số là bón lúc đầu do thức ăn sau đè lên thức ăn trước còn sau thì lại sệch lỏng, còn máu ứ trệ mà bị vỡ ra thì dẫn tới đại tiện ra máu. Khi thức ăn ẩm thấp bị tích tụ trong máu mà không lưu thông, vì chất nặng nên lâu ngày sẽ chảy xuống thận mà thành khí hư, đới hạ, viêm lộ tuyến của phụ nữ. Khi khí ở đại trực tràng bị tắt, không đi lên sẽ dẫn tới bị hãm xuống làm sa trực tràng, sa ruột, trĩ nội, trĩ ngoại, khí hãm trong máu xuống thì sa tử cung. Còn khí tắt lâu ngày sẽ dẫn đến huyết bị ứ làm dẫn đến đa dạng các loại bệnh từ đau đầu, đau ngực, nóng ngực, vã mồ hôi, mất ngủ, hay mơ, hồi hộp, phát sốt, mắt môi thâm vần v.v. Khí mà không thông lên mũi thì viêm mũi dị ứng, viêm xoang, bệnh lâu ngày tất gan thận cũng bị bệnh làm đau khớp, đau lưng, yếu cơ v.v rất đa dạng.

📍 Gia giảm các bệnh lâm sàng thường gặp. (Sách không viết)

1️⃣ Bệnh đại tràng mãn tính

Bệnh đại tràng mãn tính trong chứng của bài BTIK gốc là do thanh dương hạ hãm, nên hay hoa mắt chóng mặt do khí không thăng lên. Nhưng đa số bệnh lâu năm thường kèm các chứng của các vị thuốc như:

- Can khương trong chứng Tỳ dương hư tiêu lỏng, lạnh chân tay.


- Ngô thù du trong chứng can khí hoành nghịch, uất trệ làm đau sườn đắng miệng

- Thương truật Bạch linh trong chứng thấp trệ tiêu lỏng sệch máu sẩm tối, tiểu vàng.

- Phá cổ chỉ trong chứng Tỳ Thận lưỡng hư gây đau lưng, lạnh chân, tiểu đêm v.v lúc này thường tùy vào chứng mà có thể gia chung Can khương, Phụ tử, Phá cổ chỉ, Ngô thù du, Thương truật, Bạch linh và thường bỏ Đương Quy, nếu viêm đau thì không nên dùng Táo. Trong phương gia giảm có vị Phụ tử về nguyên tắt thì ít dùng bệnh ở trung tiêu, nhưng thực tế lâm sàng nhiều bệnh không có thì không trị được, thậm chí phải dùng nhiều 8g - 12g và tăng cảm thảo, đẳng sâm, chích kỳ lên để hòa hoãn tính giáng mà tuyên thông huyết mạch của phụ tử để giúp sâm kỳ phục hồi nguyên khí hậu thiên. 

2️⃣ Bệnh hư nhược mệt mỏi mãn tính

Bệnh loại này nguồn gốc là do nguyên khí suy nhược, lâu ngày làm trung khí hư theo, khí hư thì bao giờ cũng có khí trệ, uất trệ ở gan thì có Hương phụ, Uất trệ ở thận tiểu tràng thì có Ô dược, và lâm sàng hay kết hợp cả 2 vị này vào tính hiệu quả trong việc giải khí uất, điều khí, thuận lại dòng khí sẽ rất cao. Vì trung tiêu là khu vực dưới hoành cách mô, và hai vị này được ứng dụng rất hiệu quả trong bài Cánh Hạ Trục Ứ Thang của cụ Vương Thanh Nhậm. Lúc này nếu bệnh nhân không có hiện tượng nóng thì nên gia thêm Phụ tử để tăng tác dụng tuyên thông bổ khí của bài thuốc. Vì khí trệ lâu ngày thì sẽ thành huyết ứ, nên lâm sàng thường có thêm biểu hiện của huyết ứ như người nóng sốt, đỗ mồ hôi, hồi hộp, đau tức ngực sườn, nhói tim v.v Nếu ứ nhẹ thì thêm Xuyên khung, Xích thược, nếu nặng hơn thì thêm Hồng hoa, Đào nhân. Nhìn chung là gộp bài thuốc của hai cụ Lý Đông Viên và Vương Thanh Nhậm trong phác đồ điều trị giai đoạn đầu.

3️⃣ Bệnh viêm mũi dị ứng, viêm xoang

Không bị cảm mà nghẹt mũi thì đa số là do khí không thông lên, lâu ngày chỗ không thông đó bị tắt và uất, uất lâu sinh nhiệt, nhiệt bốc lên sẽ dẫn đến bị viêm mũi, viêm xoang. Nên nếu mũi nghẹt, hay dị ứng mà chưa viêm thì uống bài BTIK sẽ giúp khí được thăng lên, hơi thở được sâu thì một thời gian chứng nghẹt mũi, viêm mũi dị ứng sẽ hết. Còn khi bị viêm, phù nề trong chứng Bổ Trung thì phải có nhiệt độc, đa số nhiệt độc đó uất ở kinh dương minh vị, hoặc kinh thiếu dương đởm vì kinh dương minh chạy lên trong mũi, trán, vùng mặt còn kinh thiếu dương thì hiệp với dương minh tại vùng mặt. Nên ngoài uống bài thuốc Bổ Trung cần gia các vị phát tán như Ké đầu ngựa, Bạch chỉ, Khương hoạt, Phòng phong và phải có Hoành cầm hoặc Chi tử để giáng cái nhiệt đi thuận xuống mới trị được. Ngoài ra có trường hợp ít phổ biến hơn là can tỳ thận bị bệnh, cũng sẽ dẫn đến đởm vị bị bệnh mà dẫn đến viêm mũi, viêm xoang, thuộc phạm vi bài thuốc khác. 

4️⃣ Bệnh phụ khoa, khí hư, đới hạ

Tạng tỳ chủ vận hóa thủy thấp, phối hợp cùng Tâm, Phế, Thận, Bàng quang v.v để trao đổi vận hành thủy dịch. Chứng bệnh trong bài Bổ Trung là do tỳ khí hư, khí hãm xuống, tỳ khí hư không giúp vận hành thủy dịch sinh thủy thấp, đàm ẩm v.v. Chính những ẩm thấp này đình đọng, lâu ngày lắng xuống thận bàng quang mà sinh ra các bệnh phụ khoa của phụ nữ. Đây là chứng bệnh của bài bổ trung gia các vị như Ý dĩ, Tỳ giải, Sa tiền tử có Viêm nhiễm thì thêm Kim ngân hoa, Sà sàng tử, Ích mẫu v.v

Tứ Quân Tử Thang.

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1234033750282999&id=100010291566835


Sáng đọc tin nhắn mà thấy thật vui!

Bệnh nhân bệnh án nhiều nhưng có em gái này làm mình nhớ và trông mong cho em đỡ. SN 2002 bằng tuổi ông em trai mình, mặt ông em trai thì sướng đầy đặng hồn nhiên, mẹ chiều còn ham chơi. Trông khi em gái thì sinh ra yếu, từ nhỏ đã bệnh, giờ mắt kém mà ù tai thì nặng. 

Em đi xe từ Hà Tĩnh vào Nha Trang, ngồi cạnh hỏi mà em lúc nghe lúc không, mắt thì cận nặng, vợ mới hỏi là em bệnh như này có ngại với bạn không? Em uống thuốc cả năm rồi vậy ai cho tiền mà uống thuốc? Nhìn em đi 1 mình mà lại thấy thương thương. Hôm sau gửi thuốc vợ mới hỏi tôi lấy bao nhiêu 1 thang, tôi mới bảo anh chưa lấy tiền thuốc, em ấy uống đỡ thì lấy 30k/thang xem như mất ít tiền đổi lại đỡ bệnh còn không thì anh không lấy.

Hôm nay em uống đợt 2 nhắn lại mà nhẹ người!

Lúc khám bệnh tôi mới bảo mạch thận em trầm nhược, mà thận lại khiếu ra tai nên có thể đó là lý do các thầy ngoài đó đều cho em uống thuốc bổ thận cả năm. Nhưng mạch đởm thì uất hoạt cợm, tay phải thì cấp sác, miệng đắng, miệng đàm nên anh nghĩ ù tai là do đàm nhiệt khí uất làm tắc kinh đởm. Tay phải mạch phế nhược lại hay cảm, miệng đàm là chứng khí hư ngoại cảm trong có đàm thấp.

=> Sâm tô ẩm + Tiểu sài hồ + Thông khí tán (Bỏ Táo).

Uống đợt đầu thì đỡ mà không hết.

Đợt sau gia thêm Thông thảo tượng nhẹ nổi, sắc trắng hóa thấp khí phận và ở kinh lạc phần trên, Mộc tặc tượng ống lại nhẹ nổi sắc xanh để thông khí kinh can đởm lên trên.

Thế là hết Ù tai rồi. 

Cảm ơn thầy Dư Hạo!

Y đạo:

Cách tìm Tài liệu tiếng trung


https://youtu.be/D9jdJd4vY7w?si=vWO-GmA9La_mCt5f


phải châm có độ sâu, phải phân trái, phải


Nhân Hoà Y Đạo 8:15 PM

Ưu điểm của châm cứu Cực Dịch:

Phương pháp sử dụng đơn giản, xác định huyệt đạo qua vọng chẩn;

Tiêu chuẩn về bổ tả được lượng hóa, chọn huyệt một bên cơ thể;

Đối với các bệnh thường gặp, mỗi lần chỉ cần châm từ 1-6 kim

Thời gian điều trị ngắn, mỗi lần chỉ cần vài phút;

Dụng cụ châm nhỏ và an toàn, đau nhẹ, dễ được bệnh nhân chấp nhận.

Phạm vi điều trị rộng, Tỷ lệ chữa khỏi cao, hiệu quả điều trị rõ rệt;

Dùng ít huyệt đạo, dễ học, dễ hiểu, dễ thực hành;

Có thể hướng dẫn từ xa qua ảnh của bệnh nhân


châm cứu cực dịch 17 08 2024


金医吉- KIM Y CÁT

Top contributor

  · 

osrnStpedoaau30i1taa

h

6g28lm7cciu2l77m2ghgfc

2

0gigiug150604l9h

  · 

Dẫn dược đến vùng cổ: cát căn

Dẫn dược đến vùng ngực: Khương hoàng, Phòng phong

Dẫn dược đến vùng lưng: đỗ trọng, tục đoạn

Dẫn dược đến vùng ngực bụng: Sa nhân, Mộc hương

Dẫn dược đến vùng bụng dưới: tiểu hồi hương, ngải diệp

Dẫn dược đến vùng chi dưới: mộc qua, ngưu tất, kê huyết đằng, phòng kỉ

Dẫn dược đến vùng đốc mạch: cẩu tích

Dẫn dược đến vùng da: thuyền thoái

Dẫn dược đến vị: Bán hạ

Dẫn dược đến phế: Tang bạch bì

Dẫn dược đến Can: Sài hồ, Đương qui

Dẫn dược đến Tâm: Đan sâm, Hoàng Liên, Xương bồ

Dẫn dược đến Tỳ: Thương truật, Bạch truật

Dẫn dược đến cốt: uy linh tirn, Du tùng tiết

Dẫn dược thượng hành: Sài hồ, thăng ma, cát cánh, mạn kinh tử

Dẫn dược hạ hành: Ngưu tất, đại giả thạch, Tuyền Phúc hoa


https://youtu.be/mN0kIQVQEfU?si=5y2Ad0aBqfYLwgFg&sfnsn=mo


https://youtu.be/jEX6zi2p700?si=57FyyfTpIG7Gnh6X


https://youtu.be/6jQYdaX_VCI?si=eu7uC2bEzSIJ6zOX


https://youtu.be/0lGbzV1c-Bc?si=f8LoJmjdeFlJwdB3

Lục kinh, LỤC KINHY đạo:
Trọng Hậu
stSdnproeoe90lee 0220u56r4m83019f23D02uf5t8baih l49130ccc275  ·
DETOX GIẢM CÂN, CÁI CHẾT THẦM LẶNG
4 tháng trước có một cô gái, chỉ ngoài 30 thôi. Người nóng, ho, cao huyết áp, trào ngược, ăn vào ói ra nhờ mình xem bệnh. Mình thấy bệnh nặng nên bảo chị ấy đi khám trực tiếp sẽ tốt hơn. Gần đây chị ấy phản hồi, "em bị suy thận giai đoạn cuối, chứng trào ngược ăn vào ói ra như anh nói đúng là do suy thận". Cô ấy không chịu ăn cơm, chắc sợ cơm nhiều đường gây mập, tiểu đường. Cũng không ăn thịt cá gì nhiều, chắc nghĩ nhiều đạm, chorestorol xấu hại cơ thể, thích ăn trái cây chua, uống detox, vì nghĩ giàu vitamin, khoáng chất, giúp giảm cân, đẹp da v.v. 😔
Rồi gần đây, nhiều cô gái trẻ nhờ xem bệnh, mặt thì trắng bệch, mắt hóc hếch, môi nhợt nhạt, người thì lạnh, hay cảm, viêm mũi, viêm xoang. Xem ra thấy dương khí không đủ, người nhiều bệnh, ấy vậy mà thuyết giảng về dinh dưỡng, về chất béo, vitamin, omega, rồi bán các sản phẩm dinh dưỡng, dạy mọi người uống vitamin, uống detox, ăn low-carb đầy ra trên mạng xã hội để khỏe mạnh. Mình nói cho mấy chị em biết, cái đó là hại người, là tích "Nghiệp", là gieo "Nhân xấu" thì tất phải nhận "Quả bệnh" thôi.
Nền tảng của sức khỏe là phải dựa vào 3 yếu tố cốt lõi là TINH - KHÍ - THẦN
Trong đó TINH (thức ăn) như sau:
Hoàng Đế Nội Kinh Ta‌ng khi‌ pha‌p thơ‌i luâ‌n viê‌t: "Ngu‌ cô‌c vi dươ‌ng, ngu‌ qua‌ vi trơ‌, ngu‌ su‌c vi i‌ch, ngu‌ tha‌i vi sung". Nghĩa là: Ngu‌ cô‌c la‌ thư‌c phâ‌m cung câ‌p dinh dươ‌ng, Hoa qua‌ la‌ thư‌c phâ‌m hô‌ trơ‌, Gia su‌c la‌ thư‌c phâ‌m bô‌i bô‌, Rau cu‌ la‌ thư‌c phâ‌m bô‌ sung. Nên quan trọng nhất đó chính là ngũ cốc, là gạo, ngô, bắp, kê, những thứ rẻ tiền, nhưng nuôi dưỡng thế hệ ông bà xưa trường thọ. Nếu không dịch bệnh, không nạn đói thì toàn 80, 90 tuổi, còn nay thì 50, 60 thậm chí 30,40 tuổi đã ung thư chết. Và thứ yếu nhất đó chính là trái cây, hoa quả. Nên muốn sống nhẹ nhàng, thì ăn ngũ cốc với rau củ, muốn bồi bổ cho mập thì thêm ngũ súc bò, gà, lợn, còn hoa quả thì hỗ trợ thôi.
Xét tương đối về âm dương, hàn nhiệt thì:
Ngũ cốc (Gạo, bắp, kê) => Cân bằng
Ngũ súc (gia súc, gia cầm) => Dương nhiệt
Ngũ quả (trái cây) => Âm hàn
Ngũ thái (Rau và củ)
- Rau, nấm, giá, cà => Âm hàn
- Củ, cà rốt, bí đỏ, khoai lan => Cân bằng
=> Vậy DETOX là ÂM HÀN!
Nên khi uống, ăn đồ lạnh, đầu tiên dạ dày và ruột sẽ lạnh mà kém nhu động và hấp thu, vào máu về gan chuyển hóa sẽ làm gan lạnh, sau đó xuống thận lợi tiểu thải độc sẽ làm thận lạnh. Trong khi thận dương như nguồn nhiệt, giúp gan khí điều tiết đưa máu đi nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng và giữ ấm cơ thể bên trong, bảo vệ với phong hàn mưa gió bên ngoài, nay người lạnh lại ăn uống đồ lạnh thì thử nghĩ làm sao mà không bệnh đây. Nên người trạng âm hàn nên hạn chế các đồ ăn lạnh.
Cách nhận biết người trạng âm hàn như sau:
1. Huyết áp thấp, thiếu máu
2. Sợ lạnh, chân tay hay lạnh, đại tiện nát
3. Sắc mặt trắng, môi nhợt nhạt
4. Người ốm yếu, hay mệt mỏi, thiếu sức
5. Rối loạn kinh nguyệt, đau mỏi lưng gối
6. Tiêu hóa kém, dễ cảm, viêm mũi, viêm xoang
V.v
Lưu ý: Người trạng nhiệt, dương thịnh như người Âu Mỹ, người chơi thể thao, chạy bộ, người nóng, nhiều mồ hôi, ăn uống đồ mát vừa phải là tốt. Nhưng người TRÊN NÓNG như môi khô, miệng khát, mà DƯỚI LẠNH như lạnh chân, rối loạn kinh nguyệt, đau mỏi lưng gối CẤM tuyệt đối.
Dân văn phòng ngày nay, đa phần thích đẹp, nhưng lời vận động, bị tiêm trong đầu là "tinh bột tiểu đường" "thịt nhiều cholestorol" "trái cây giàu vitamin, tốt" nên ăn nhiều trái cây, ít thịt và tinh bột nên người bị "âm hóa" mà dễ cảm, dễ mệt, rối loạn kinh nguyệt, lạnh tay chân, và nhiều bệnh lí khác về xương khớp rất nhiều. Thật ra họ thông minh, hiểu biết, nhưng chưa đủ sâu, đem cục bộ mà đánh đồng tổng thể, đem cái hiệu quả ngắn hạn mà đi tư vấn, hại rất nhiều người, mong mọi người hãy sáng suốt. Hãy thử ăn uống đồ lạnh nhiều vào, uống nước ép cam, bưởi, cà, thơm sáng tối vài ngày, rồi sau đó xem người có uể ỏi hơn, có tụt huyết áp hơn, có hoắc hơi nhảy mũi hơn, hành kinh có đau bụng nặng hơn không để biết mình nói đúng hay sai.

Năm 2019 mức tiêu thụ các sản phẩm y tế, sức khỏe của Mỹ là hơn 3000 tỷ USD (15% GDP). Nên tiêm vào đầu dân dùng vitamin, khoáng chất, thuốc Insuline, Panadol, hạ HA, các thực phẩm chức năng Amway, Herblife (tốt xấu có cả, nhưng giá cả rất đắt) là động lực phát triển kinh tế, lợi ích nhóm đằng sau rất nhiều, không tiêm thì nước Mỹ từ tăng trưởng kinh tế 3% chắc chắn chuyển thành suy thoái. Dân Mỹ 50 tuổi đã chết trên đống thuốc đến 80 tuổi, sống lâu để trả nợ, chịu khổ trên cái thân bệnh, điều đáng học nhất của người Mỹ là Tinh Thần. Còn ăn uống hãy học dân Nhật, học phối ngũ âm dương hàn nhiệt tinh tế, từ gừng, tía tô cay nóng với hải sản thấp lạnh v.v, về vận động, về tắm, ngâm nước muối nóng, nhưng đừng học họ về làm việc, về cuộc sống vội vả, cái đó nên học dân Bắc Âu, bạn sẽ thấy cuộc sống an nhiên tự tại vui vẻ hơn rất nhiều.
Các bài sau mình sẽ chia sẻ mọi người các thực phẩm tốt, cân bằng.
LYHP: Lương Y Hạnh Phúc

Hiểu sai về tác hại của tìn. h dục ở nam giới !

Đông y coi Thận là gốc, lấy âm dương của thận làm cơ sở cho các tạng phủ khác. Cho nên sự thịnh suy của Thận được coi là vấn đề nghiêm trọng nhất.

Thận trong đông y không phải chỉ là nói về hai quả thận, mà nói đến một nhóm các chức năng sinh lý khác nhau được chia thành bốn nhóm bao gồm có Thận âm - Thận dương - Thận tinh và Thận khí.

Hôm nay nói riêng về Thận Tinh : đây chính là đề cập đến chức năng sinh trưởng và phát dục của con người, cũng là nói đến các năng lượng từ cảm xúc như sự yêu đời, tinh thần hăng hái hoạt động ...

Trong điều kiện bình thường rất hiếm khả năng Thận Tinh bị hao tổn, nhưng Thận tinh lại dễ dàng bị hao tổn bởi hoạt động tì nh dụ c phóng túng. Điểm này cần giải thích thêm, vì đang có một hiểu lầm nghiêm trọng ở mọi người : Hãy lưu ý nhé, hoạt đông td lạnh mạnh ở những người có bạn tì nh thì không gây nguy cơ tổn thương Thận Tinh. Mà chỉ những người có khát khao td nhưng không được thoả mãn thì mới gây ra tổn thương đến Thận Tinh ( Đông y gọi là Ý dục tiêu đốt Âm Tinh ).

Hiện tương như trên miêu tả thường gặp ở hai trường hợp, một là những người đam mê td quá độ, luôn cảm có cảm giác thiếu thốn td thuần tuý ( không kèm theo tình cảm yêu đương ), người này cho dù có hoạt động td thực tế cũng không giảm bớt ham muốn. Những người ở trường hợp này không nhiều.

Trường hợp hai thì lại khá phổ biến, đó là những thanh thiếu niên chưa có bạn tì. nh mà vướng vào thủ dâ. m nhiều, dẫn đến Thận Tinh hao tổn. Biểu hiện là tinh thần uể oải, thiếu động lực, khó tập trung và suy giảm đáng kể trí lực, ... gây ảnh hưởng rất nhiều đến học tập và đến quá trình hình thành nhân cách.

Thủ dâ. m ở thanh thiếu niên cũng sẽ làm cho não nghiện dopamine, một loại hormon gây hưng phấn nhất thời, hậu quả là mất ý trí, không thể duy trì hứng thú liên tục với các công việc và sở thích khác, thường xuyên mất cảm giác tích cực và phải quay lại với thủ dâ. m để có lại dopamine. Trong khi con người cần endorphine để có hứng thú tham gia vào các hoạt động bền bỉ, đều đặn như học tập và thể thao, ...

Đông y có bài Tả Quy Hoàn có tác dụng cải thiện mạnh mẽ trong trường hợp này.
...

Cao Tả Quy Hoàn đang nấu, 24 tiếng nữa sẽ ra lò mẻ đầu tiên.

#duongminhtuan #minhyduong #taquyhoan

Uống 10 ngày mà sinh lý cải thiện kha khá rồi!

Người không hiểu cứ nghĩ bổ thận là uống các phương bổ thận, vị thuốc bổ thận. Đâu hiểu rằng uống nhiều thuốc bổ thận sẽ dẫn huyết đi xuống thận thái quá mà dưới thận thực trên tâm hư, thận thực lại ham muốn, muốn tiết mà dưới cuối cùng cũng hư, tâm thận hư từ đó mà sinh ra nhiều bệnh nặng sau này.

Lâm sàng ít ai thận hư đơn thuần mà đa số là do suy nhược đều của ngũ tạng nên thận hư, nên muốn bổ thận phải chiếu cố bổ tâm, vì tâm chủ mạch là động lực thúc đẩy khí huyết toàn thân. Thuốc cường dương độc vị như Ba kích, Sâm cau, Mứ tửng, Dâm dương hoắc, Hải mã v.v. tốt nhất là không nên uống nếu không muốn bệnh nặng sau này. Thận tàng tinh, mà tinh sinh huyết, tâm lại chủ huyết mạch, thận dương lại chủ khí hóa đốc mạch thăng lên não, nên dưới tiết tinh càng nhiều trên tâm càng thiếu huyết dịch, não lại thiếu khí v.v. nên như người thủ dâm qhe càng nhiều nhẹ thì bị chỉ ở thận như đau lưng suy giảm sinh lí, nặng hơn thì ảnh hưởng tới tâm như tim hồi hộp, mất ngủ, rối loạn lo âu, thần kinh thực vật, lâu dài suy giảm trí nhớ hay quên là vậy.

Nên bổ thận muốn bền phải có thuốc trợ tâm mạch dưỡng tâm dịch như Nhân sâm, Đảng sâm. Đến như Kê huyết đằng, Ngũ da bì trong phương là thuốc đi xuống thận nhưng lại cường tâm thông mạch cũng là chiếu cố vào tâm mà bổ cho thận vậy.
Trọng hữu

BỆNH ĂN THÔ TRÁI CÂY!

Khám 10 người bệnh do ăn thô, thì lạ thay cả 10 người đều bị bệnh liên quan đến đại tràng, tử cung, kinh nguyệt, đặc biệt là bị u nang tử cung. Như bệnh nhân này là vừa u giáp, u ngực, u tử cung, u trực tràng, nấm ngứa, phụ khoa, giảm từ 58kg còn 41kg v.v.

Khí của trái cây là hàn, bên trong lõi trái cây chứa hạt nơi sinh mệnh ra đời. Tương tự vậy trái cây đồng khí với tử cung người phụ nữ, nơi nuôi dưỡng một sinh mệnh mới. Nên ăn trái cây cái khí hàn đó đi thẳng đến tử cung, tử cung gặp hàn khí thì như bỏ tay vào ngăn đá tủ lạnh vậy, gặp hàn thì chủ co rút, máu lưu thông bị đông và chậm lại, khí trong máu dần lưu thông chậm và kém đi, kết quả là ẩm thấp trong máu bị cô đọng lại thành u, thành nang, ẩm thấp này theo máu đi nghịch lên gan, lên ngực, lên cổ mà thành nang giáp, nang vú, nang gan v.v. Chưa kể ngày nay trái cây bị biến đổi gen, trái cây làm hạt nhỏ lại hoặc không hạt mà thịt nước nhiều lên, trái cây lại trồng trái mùa ngược tự nhiên mà làm hàn khí của trái cây ngày nay cao hơn trái cây xưa rất nhiều.

Ăn thô trái cây, lúc đầu ai ăn cũng khỏe, da đẹp vì trái cây nhiều chất xơ, giúp làm sạch thức ăn tích trệ lâu ngày ở đường ruột và dạ dày, 2 kinh này lại chạy lên mặt nên da sẽ đẹp. Nhưng khi tiếp tục ăn thì lớp dịch nhờn trên đường ruột dần dần bị bào mỏng đi, âm dịch trong đường ruột bị mất, kết quả là hấp thu dần bị kém đi, sự nhu động dần giảm dần, khí từ vị tràng do nhu động đẩy vào máu bị kém đi, nên khí đẩy máu bị kém đi, máu sinh ra cũng kém. Nên khí huyết kém, hàn khí từ trái cây lại nhiều, làm đàm thấp không hóa dần đình lưu, thành u, thành nang, máu huyết kém mà kinh nguyệt bị mất, kinh ra lượng ít, người dễ lạnh, dễ sợ gió sợ lạnh, tiêu hóa kém hơn, trướng bụng trào ngược, kết quả là bệnh lại nặng hơn khi chưa ăn.

(*) Nhìn lưỡi, đặc biệt bề mặt:
- Bề mặt không trơn phẳng, mà lồi lõm các điểm, đây chính là khí lưu thông bị kém, khí trệ.
- Sắc lưỡi màu nhợt, lại hơi ám tím, đây chính là huyết thiếu, huyết ứ.
- Rêu thì màu trắng, lại trải dài từ cuống lưỡi lên đầu lưỡi, đây chính là ẩm thấp đàm trong máu, theo khí trệ, huyết ứ mà đình lưu từ tử cung lên tới cổ thành nang, thành u.
- Hình lưỡi sắc lưỡi này tựa như ống nước, mà bên trong đầy rong rêu ở thành ống, nước bên trong đã ít, lại chảy chậm, chỗ tắc chỗ thông.

Huyết kém, huyết ứ => Đương quy, Xuyên khung, Xích thược, Hồng đằng.
Đàm thấp => Nhị trần thang
Khí trệ => Trần bì, Thanh bì, Hung 3 dược, Uất 3 dược.
Khí hư => Đảng sâm, Hoàng kỳ
Đàm kết thành nang giáp => Bối mẫu, Liên kiều, Kê nội kim, Mẫu lệ
V.v

Đây chính là trường phái lý khí nổi tiếng trong Đông y.

📌 Mong quý anh chị có bạn bè ăn thô hãy nhắc nhở họ, có thể có người cơ địa phù hợp, họ ăn tốt, nhưng không đồng nghĩa là ai ăn cũng tốt. Và chúng ta hay bị lầm cái tốt lúc mới ăn mà nghĩ sẽ tốt cả về sau này.
Trọng Hậu

Em thấy bảo gừng dùng độc vị người âm hư nội nhiệt không nên dùng,em không biết khi kết hợp 5 vị vào thì gừng còn bị ảnh hưởng đối với trường hợp âm hư nội nhiệt không..khi em ứng dụng vào thực tế thì thấy nó quả thực khiến cơ thể khỏe khoắn,đầu óc tỉnh táo hẳn,nhưng em không cho sả gừng.
_em cũng có thắc mắc là ng bị hàn thì khi uống bài CMSGM xong thì phơi nắng, chạy chân đất để tiếp âm thể dục cho vã mồ hôi theo công thức của họ thì hàn sẽ thoát ra,vậy nhiệt độc trong cơ thể có thoát ra theo hay không,vì nếu ng nào uống mà không thể dục cho vã mồ hôi thì có thể gây nóng trong, có những trường hợp họ uống CMSGM thời gian đầu họ phát ngứa,nổi mụn nhọt tùm lum, cảm thấy nóng trong,nhưng họ kiên trì không bỏ thì sau quãng thời gian mụn nhọt,phát ban tùm lum thì cơ thể họ lại trở lại trạng thái bình thường, mụn nhọt ,ban sẩn tự hết và họ cảm thấy khỏe lên, và vẫn duy trì uống và không bị sao cả.

Nguyễn Thu Hương Vậy là tốt ấy em, cơ địa bạn này phù hợp với pp đó. Phát lên rồi hết là do phong độc bị đẩy ra ngoài, chắc nhờ vị Sả đẩy độc từ lý ra biểu. Các bệnh nhân ngứa, viêm da Đông y có vị Thương truật rất hay được dùng, cũng ngứa lên, phát ra mụn nhọt rồi sau mới hết bệnh.

Hoàng Nguyễn Huy
Bàn luận về Thận là gốc của tiên thiên, Tỳ là gốc của hậu thiên.

Nội kinh viết: “Trị bệnh tất cầu kỳ bản”, nói “bản” chính là gốc, là nguồn. Ở đời chưa từng có dòng nước không có nguồn, cây cối không có gốc. Lọc ở nguồn thì dòng nước sẽ tự trong sạch, tưới cho gốc thì cành lá sẽ tự rậm rạp, đó là cái lẽ tự nhiên. Cho nên người giỏi chữa bệnh ắt sẽ tìm đến căn bản, mà căn bản thì có phân thành tiên thiên và hậu thiên. Gốc của tiên thiên ở Thận, Thận ứng với hành thủy ở phương bắc, thủy là nguồn của thiên nhất; gốc của hậu thiên là Tỳ, Tỳ ứng với hành thổ ở trung cung, thổ là mẹ của vạn vật.

Thận tại sao lại là gốc của tiên thiên? Bởi lẽ lúc chưa có thân này thì trước đó đã có hai Thận, vậy nên Thận là gốc của tạng phủ, là rễ của 12 kinh mạch, là gốc của hô hấp, là nguồn của Tam tiêu mà người ta tư bẩm ở đó để làm điểm khởi đầu. Cho nên nói gốc của tiên thiên là Thận.
Tỳ tại sao lại là gốc của hậu thiên? Bởi lẽ khi đứa trẻ đã sinh ra, một ngày không ăn thì sẽ đói, bảy ngày không ăn thì trường vị khô kiệt mà chết. Nội kinh nói “an cốc tắc xương, tuyệt cốc tắc vong” (Cốc khí yên ổn, ăn uống được thì sẽ tốt đẹp; ăn uống không được thì sinh mệnh sẽ không thể duy trì), giống như quân lương trong nhà binh, đường quân lương bị cắt đứt thì vạn binh lập tức tán loạn, Vị khí vừa suy bại thì bách dược sẽ khó thi chuyển được, vừa có được cái thân thể này liền đã phải tư bẩm cốc khí, thủy cốc đi vào Vị, phân tán khắp lục phủ mà khí đến, điều hòa ở ngũ tạng mà huyết sinh, mà con người ta tư bẩm ở đó để làm sự sống. Cho nên nói gốc của hậu thiên là Tỳ.

Bậc Thánh nhân thời thượng cổ thấy Thận là gốc của tiên thiên nên gắn vào trong mạch nói rằng: “Nhân chi hữu xích do mộc chi hữu căn” (Con người ta có mạch xích như cây có gốc rễ), cành lá tuy khô héo căn bản sẽ tự sinh; thấy Tỳ Vị là gốc của hậu thiên nên gắn vào mạch nói: “Hữu Vị khí tắc sinh, vô Vị khí tắc tử” (Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì chết), cho nên trong Thương hàn phải xem mạch Thái khê để xét sự thịnh suy của Thận, phải xem mạch Xung dương để xét có hay không Vị khí, hai mạch ấy còn các mạch khác có thể không cần hỏi đến.

Trị vào gốc của tiên thiên thì có phân ra thủy hỏa, thủy bất túc thì dùng bài Lục vị hoàn tráng nguồn của thủy để chế ước dương quang, hỏa bất túc thì dùng bài Bát vị hoàn ích chủ của hỏa để tiêu trừ âm ế. Trị vào gốc của hậu thiên thì có phân ra ẩm thực, lao quyện, ẩm thực làm tổn thương thì dùng Chỉ xác hoàn làm chủ, lao quyện làm tổn thương thì dùng Bổ trung ích khí làm chủ. Thường thấy ông Lập Trai trị bệnh đa phần dùng các bài thuốc trên, người không biết thì sàm nghị cho rằng đó là thiên lệch, chỉ có người hiểu được cái lý “cầu bản” thì sau mới có thể lén nhìn được sự huyền vi của Lập Trai.
Vương Ứng Thìn viết: “Thấy đàm đừng trị đàm, thấy huyết không trị huyết, vô hãn không phát hãn, có nhiệt chớ công nhiệt, suyễn sinh thì đừng làm hao khí, tinh di thì chớ dùng phép tiết (có bản ghi là “chớ sáp tiết”), hiểu rõ những ý thú ở trong đó, mới là hào kiệt trong những người thầy thuốc”, đó thực là những lời nói xuất phát từ sự “hiểu biết chỗ gốc rễ” vậy.

K.C. lược dịch.
***
Bài viết được tài trợ bởi viên hoàn X chuyên bổ Tỳ ích Thận - tăng cường sinh lực.

Mình ngoài việc dịch bài, chia sẻ ra thì còn có một vài công việc khác (thú thật là vẫn phải "kiếm thóc") trong đó có việc làm viên hoàn X. Kỳ thực viên hoàn X của mình gần đây tuy mới ra mắt nhưng được rất nhiều người quan tâm, cũng đã được nhiều bạn ủng hộ, feedback cũng rất ổn, nói bài viết này được viên hoàn X tài trợ vừa là nói vui mà cũng là nói thật. Hy vọng tương lai viên hoàn X sẽ được mọi người ủng hộ nhiều hơn nữa. Xin cảm ơn mọi người rất rất nhiều ❤️

VHIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ VẢY NẾN BẰNG CHÂM CỨU CỰC DỊCH
     Thông tin bệnh nhân, nam, 40 tuổi       
     Ngày giờ thăm khám: 29 tháng 11 năm 2020
     Lý do đến khám: Bệnh vảy nến kéo dài hơn 3 năm.
     Bệnh sử 3 năm trước, bệnh nhân phát hiện trên cơ thể xuất hiện những nốt đỏ rải rác, có da khô bong tróc, ngứa nhẹ. Đã sử dụng thuốc bôi ngoài da, hiệu quả không ổn định, thỉnh thoảng lại tái phát. 3 tháng trước, bệnh nhân đến bệnh viện địa phương khám và uống thuốc Đông y, sau đó tình trạng bệnh nặng hơn. Trước khi uống thuốc, vảy nến chỉ xuất hiện từng mảng nhỏ rải rác trên đầu và cơ thể, nhưng sau khi uống thuốc, trên đầu xuất hiện mảng lớn lan ra đến trán, đồng thời tổn thương trên cơ thể cũng tăng lên rõ rệt. Sau đó, bệnh nhân ngừng uống thuốc Đông y và được bạn bè giới thiệu đến khám.
     Thói quen sinh hoạt: Bệnh nhân ăn uống không điều độ, thường dùng thức ăn lạnh, chức năng tỳ vị kém, đại tiện không thành khuôn.
     Chẩn đoán:
Tạng phủ: Tỳ vị kém, âm dương mất cân bằng.
Chẩn đoán cực dịch: phải dương, phải thăng, xuất
     Điều trị:
Phương huyệt: Kim thăng quân, Thủy giáng thần, Kim âm quân, Thủy dương thần, Thổ giáng quân, Thượng tiêu dương, Trung tiêu âm, Hạ tiêu âm, Hỏa thăng quân.
     Cách châm: Đầu kim hướng xuống, lưu kim 30 phút tại huyệt Hỏa thăng quân và huyệt Tả Thông Thiên.
     Kết quả điều trị:
Bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp Cực Dịch Châm cứu với liệu trình cách ngày (một lần cách ngày) trong hơn 1 tháng.Các tổn thương trên đầu dần biến mất, không còn vảy bong tróc.Vùng da bị vảy nến trên cơ thể cũng không còn bong tróc, da trở nên nhẵn mịn.Hiệu quả điều trị rõ rệt, bệnh nhân rất hài lòng.
_Nhân Hoà Y Đạo_
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook

https://nhattruongkontum.com/download/
Ebook sách y học đông y

https://www.dienchanviet.com/kien-thuc/dong-y/tai-lieu-dong-y-ebook-va-cac-trang-web-dong-y

https://www.yhoccotruyen.org/ViewTopic.jsp?tid=20547&fid=2&Page=1&trp=1&ttp=459

https://www.youtube.com/watch?v=lsWL4-GoEao&list=PLIL6SH366f0AbHLzlNNie3fd3gqn5SwU5
y gian ddao

https://youtu.be/ipudim6Es3I
am duong cuu cham

https://youtu.be/cP7Qb3F9BS4
THiet chan

https://youtu.be/Aw8gwfi8_Y4
thiet chan

https://www.youtube.com/watch?v=4lggl7P43-0&list=PLfiPZbaE5w2kDQNN0Zmn2leslF36quOsO
thiet chan

Trong chẩn đoán học nói chung và thiệt chẩn nói riêng mình đều chia sẻ góc nhìn tổng thể hơn là vi chẩn, phần là vì nắm được tổng trạng âm dương khí huyết và vận hành ngũ tạng thì có được sơ đồ tổng thể cho sức khỏe toàn thân và các cơ chế bệnh liên quan, qua đó có phương án điều trị tốt hơn, còn vi chẩn đi vào vạch lá tìm sâu và chỉ nhìn được cục bộ tình trạng tại chỗ của cơ quan bệnh lý và dễ lậm vào kinh nghiệm theo bệnh danh. Phần nữa là vi chẩn ko có nhiều giá trị khi triệu chứng chưa có biểu hiện, còn có biểu hiện rồi thì bệnh nhân khai bệnh cho đi tìm theo đó thì nhàn hơn nhiều. Còn yếu tố nữa là vi chẩn dễ bị nhiễu khi có các yếu tố xung quanh ảnh hưởng  hoặc che lấp mất. Ví dụ như bệnh nhân này có viêm nhẹ vùng mũi xoang và mắt phải có một điểm ứ nhiệt , đi khám mắt phát hiện khởi phát đục thủy tinh thể , vì trên nền lưỡi tương đối bình thường nên nó nổi bật ra chứ nếu có tâm hỏa uất khiến toàn bộ đầu lưỡi nổi đỏ thì ko còn thấy được biểu hiện nữa.
Dĩ nhiên sau khi quan sát tổng thể thì vi chẩn để tối ưu phương án điều trị vẫn là tốt nhất rồi

2022.09.11

https://www.facebook.com/share/v/189atuDdfN/
Âm dương cửu châm

金医吉- KIM Y CÁT

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid035eJCiJMUSx2ZDDoY8RuYPxmQhkedc9UCTY32Ct5GDtKXUCsCpWHyCJ9mePujwya2l&id=61564647082947&__cft__[0]=AZVNzb_-mjEvcrwMZbk_JgWBAToTMpLeGc_2em0xKVTtEKUqdn0RY-Y3ajx4ObyQ79EzOrxkfxa8Nu4vP1Q0qgFSe8BE9mpm9cgAbSKkJCHxBjfwBXhujtdHsZf7OqfjkLv3ArS9ticCeNjYFrC60uH_NLtv43yc2NKVDtoEPzBuU5oIGlPAxWRzLLrJNz8vcxHNNd1xykFvjh88FRC3qu-D_ho_O5nzbE_ElGAfSaQRTg&__tn__=%2CO%2CP-R

https://www.facebook.com/luongytronghau/posts/pfbid02Qwhtqz3UDvd84GeJK1L3cQBFw5PD15YLgpXsQZrjTyokSxtB83xS42oaGZbiDM24l?__cft__[0]=AZUPJlMB4o0A19R4NZTaHEK-D7xBniz12b5_XB-k07H7WuGBpxtoMnGNsEIB8gpMeuaeDFL8hz6wkphC7qJwNFhSzPsMSpRVYuQPWqW6OImmQCcrMOtOMczK1gubSws2j_fPoqxMYHeJJgmAOUfrkemF3X5TrW9TjX9rM1OPmwSLPg&__tn__=%2CO%2CP-R

Lâu rồi chỉ tập trung làm nghề cũng không đọc sách y nên cũng không nhớ đọc ở đâu để chụp hết đăng lên cho mọi người!
Mọi người thấy đấy, bao nhiêu y gia bao nhiêu y án, nhiều lắm, ăn trái cây nhiều vào rồi sinh u sinh nang đầy người mà đâu ai tin đâu, Bác sĩ Tây y thì bảo phản khoa học nhưng mọi người cứ quan sát cơ thể dần mà xem. Tôi không nhớ đọc ở đâu nhưng đại loại là trong Đông y có học thuyết Đồng Khí Tương Cầu, trong trái cây có chứa hạt, hạt chính là mầm mống sinh ra cây, tương tự vậy trong tử cung người phụ nữ có chứa bào thai, là mầm mống sau thành người, nên khí của trái cây và khí của tử cung là đồng khí, ăn vào hàn khí của trái cây đều chạy xuống đó hết. Cũng như người xưa chỉ mọi người hầm thận lợn, đuôi lớn, xương sống lợn với đỗ đen trị đau lưng, ăn ngọc cẩu dê trị sinh lý.
Trên nguyên lý đó thôi!
Khi còn trẻ khỏe thận dương khí còn thịnh thì không sao cả, ngược lại ăn trái cây hay rau sống giúp tiêu thực, vị chua làm tan chất bẩn tích tụ như Chanh, Bưởi, Sơn tra nên giúp làm sạch đường ruột, làm sạch đi những chất bẩn do đạm thịt trở trệ bên trong ruột nên giúp đẹp da (kinh vị tràng vinh lên mặt). Nhưng dần có tuổi thì khí nhược, lại ăn nhiều trái cây làm hàn khí chảy xuống dưới làm thương tổn thận dương. Dương khí suy giảm dần nên không khí hóa đẩy thủy thấp vùng hạ tiêu (tử cung) ra ngoài nữa, kết quả là gì chính là thành u nang buồng trứng tử cung, do thủy thấp đình lưu trở trệ.
Phương thuốc đông y hay trị nhất là gì?
Chính là Quế chi phục linh hoàn của Thánh y Trương Trọng Cảnh rồi gì nữa Ngũ linh tán đều có Quế chi.
Mọi người biết Quế chi tính gì rồi ấy.
Chính là tính ấm mà nóng giúp ấm huyết và lưu thông huyết mạch. Bạch thược, Đan bì chính là liễm và dẫn tính ôn thông của Quế chi không cho tán lên tâm mà dẫn đi xuống tử cung tán u nang bên dưới. Bản chất là ấm để ôn thông, sau có người dùng mấy vị thuốc phối với rượu có tính ôn thông uống để trị u nang cũng cùng 1 ý nghĩa đó!
Thôi thì ăn ít trái cây lại, ăn trái cây đúng mùa, nóng khát hãy ăn, thường xuyên vận động và phơi nắng.
Ai tin thì nghe không tin thì cứ ăn sau có tuổi thì rất dễ sinh u nang nhẹ thì người béo bệu khó giảm cân. Như người có tuổi có thấy ai ăn bưởi cam trái cây mà giảm cân không, càng ăn càng béo, càng ăn càng bí đại tiện khó đi? Đó là vì tính trái cây tính hàn làm thương tổn tỳ thận khí, muốn giảm cân thì nên ăn gạo lứt vì tính gạo lứt là ấm trợ dương khí tỳ thận. Cũng như có người dùng Gừng, Tía tô giúp giảm cân cũng là nhờ tính ấm giúp ôn thông tán mỡ.
#thaythuoctronghau
#luongyhanhphuc

Uống trà Tê bì mà lại hết nhân xơ tử cung!

Thấy lạ với bác sĩ tây y chứ đông y lại cùng 1 gốc bệnh.
Trị tê bì cốt ở khu phong - trừ thấp, hoạt lạc - thông tý
Trị u xơ cốt ở hoạt huyết - khử ứ, nhuyễn kiên - tán kết, ôn kinh - chỉ thống

Tê bì thường ở khí và kinh lạc nên trị đa số là dùng thuốc khinh nhẹ, vị cay đắng chạy phù nổi như thuốc trị phong. Vị đắng vốn đi chìm đi xuống nhưng vì chất nhẹ nên đi xuống mà lại đi phù ra ngoài khí phận và kinh lạc, tiêu biểu là Độc hoạt giúp khí hóa vùng hạ tiêu. Nhưng trị phong tiên trị huyết nên tôi từng gặp 1 bệnh án có thầy cho uống mấy chục thang Độc hoạt tang ký sinh vẫn ko hết tê bì đau nhức tay chân, ấy vậy mà 1 thầy cho uống mỗi 3gr Xuyên khung hãm trà lại hết.

Vì tính bổ liễm của Thục địa, Bạch thược làm cản trở sự lưu thông của thuốc trị phong. Nhưng thuốc trị phong tiêu biểu như Khương hoạt thì thơm nồng khí hùng hậu dễ thương huyết khô dịch dùng phải chuẩn. Nên nặng về phần khí thì Phòng phong, Dâm dương hoắc là an toàn, còn kiêm cả huyết phận mà dùng độc vị thì Xuyên khung là an toàn, phương thì Thân thống trục ứ. Nên dụng dược đúng 3gr Xuyên khung lại hơn mấy chục thang Độc hoạt tang ký sinh là vậy.

Khoan hãy nói đến trị tiêu bản giờ bệnh nhân đang tê bì đau nhức tay chân dụng dược sao uống vào phải cải thiện đã thì người ta mới có niềm tin mà theo đủ liệu trình.

“Vạn ác dâm vi thủ, bách thiện hiếu vi tiên”
(萬惡淫為首,百善孝為先).
“Dâm vi thủ”: Người xưa coi trọng tiết hạnh, sự đoan chính. Cho rằng dục vọng không kiểm soát là nguyên nhân dẫn đến nhiều tội ác khác.
“Hiếu vi tiên”: các đức tính tốt, Hiếu thảo với cha mẹ, tổ tiên là nền tảng hàng đầu của đạo làm người. Đây là gốc của nhân luân trong Nho giáo, được nhấn mạnh trong các tác phẩm như “Hiếu Kinh” (孝經).
chữa bệnh cho nhóm bệnh nhân trẻ nghiện TD, ngoài yêu cầu tiên quyết là tiết chế dục vọng để bớt hao tổn tinh khí còn phải quay về Hiếu kính mẹ cha, lấy cái “bách thiện” để bù đắp phần âm phúc đã lao tổn vậy.
TRong Huu


“Vạn ác dâm vi thủ, bách thiện hiếu vi tiên”

(萬惡淫為首,百善孝為先).

“Dâm vi thủ”: Người xưa coi trọng tiết hạnh, sự đoan chính. Cho rằng dục vọng không kiểm soát là nguyên nhân dẫn đến nhiều tội ác khác. 

“Hiếu vi tiên”: các đức tính tốt, Hiếu thảo với cha mẹ, tổ tiên là nền tảng hàng đầu của đạo làm người. Đây là gốc của nhân luân trong Nho giáo, được nhấn mạnh trong các tác phẩm như “Hiếu Kinh” (孝經).

chữa bệnh cho nhóm bệnh nhân trẻ nghiện TD, ngoài yêu cầu tiên quyết là tiết chế dục vọng để bớt hao tổn tinh khí còn phải quay về Hiếu kính mẹ cha, lấy cái “bách thiện” để bù đắp phần âm phúc đã lao tổn vậy.

TRong HuuY đạo:

Hanh Nhon Tran · 

eodptrsSno1

m

73m23u062t

2

58ti4a12902m

2

0f89820filf1au045am5lh20

  · 

VÌ SAO PHẢI HẠN CHẾ SẮC DỤC TRONG THÁNG 5 ÂM LỊCH???

Tháng 5 âm lịch sẽ có "Cửu độc nhật" bắt đầu từ Tết Đoan Ngọ, những ngày này cần phải kiêng kỵ đặc biệt là phải hạn chế sắc dục.

Ngày kỵ có liên quan đến sự chuyển động của mặt trăng, sự chuyển động của trái đất xoay quanh mặt trời và sự thay đổi của thiên khí trong vũ trụ. Con người vô cùng bé nhỏ truớc vũ trụ, mọi sự thay đổi của thiên thể đều sẽ gây ra sự ảnh hưởng đối với con người.

Theo truyền thống, tháng 5 âm lịch được gọi là "Độc nguyệt" hay còn gọi là "Lưu nguyệt". Đây là khoảng thời gian trời đất giao hòa, nếu con người phạm phải một số điều cấm kỵ dễ tổn thương nguyên khí.

Trong tháng 5 âm lịch có 9 ngày được gọi là "Cửu độc nhật" trong đó bắt đầu từ tết Đoan Ngọ. Tết Đoan Ngọ còn gọi là "Trùng Ngọ", trong ngày này sẽ có ngũ độc (Bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc) xuất hiện rất nhiều, vì thế dân gian còn có tục diệt sâu bọ trong ngày này.

"Cửu độc nhật" bao gồm mùng 5, mùng 6, mùng 7, ngày 15, 16, 17, 25,26, 27 tháng 5 âm lịch. Đây còn gọi là “Thiên địa giao thái cửu độc nhật" ( tức là ngày Trời đất giao hòa).

Theo vị lý học, trong những ngày này sẽ là thời khắc Âm Dương giao tranh, sinh tử phân biệt, thần minh giáng sinh minh giám, nếu làm việc cấm kỵ sẽ mạo phạm, gây tổn thương nghiêm trọng đến nguyên khí của con người.

Chính vì thế trong những ngày này cần hết sức thận trọng, tránh sát sinh, nên ăn thanh đạm, giảm bớt vị chua tăng vị đắng để bổ gan bổ thận, nên tĩnh duỡng nghỉ ngơi, cân bằng tâm khí để hòa hợp với tự nhiên, và quan trọng nhất phải nhớ muốn sống lâu, không hao tổn tinh khí, cần phải hạn chế sắc dục, tránh không đuợc quan hệ tình dục trong những ngày kỵ để tránh mạo phạm.

🔥hotline: 0888 911 648


Nhã Nam Y Viện

pserStdoon359327t1106t126iitm755

5

u

h

2m0gmu24u4utfh9tu8467lumh

  · 

VỊ TRÍ TƯƠNG QUAN TẠNG PHỦ Ở MẮT

————————

"Linh khu - Đại hoặc luận" nói: "Cái tổ của tinh là ở mắt, đồng tử là tinh của cốt, tròng đen là tinh của cân, lạc mạch trên mắt là tinh của huyết, tròng trắng là tinh của khí, mi mắt là tinh của cơ nhục". Các y gia sau này căn cứ vào đó phát triển thành học thuyết "Ngũ luân", lấy hình sắc biến hóa khác nhau của mắt để chẩn đoán bệnh biến của tạng phủ.

1. Thận – Thủy luân

 • 📍 Vị trí: Đồng tử (vòng tròn nhỏ trung tâm)

 • 💡 Thể hiện tinh khí của thận → “Thận khai khiếu ra mắt”.

 • 🩺 Khi thận hư → mắt mờ, không nhìn rõ, đồng tử phản xạ kém.

2. Can – Can luân

 • 📍 Vị trí: Vòng quanh đồng tử (giác mạc)

 • 💡 Can chủ huyết, can khí điều khiển sự vận động của mắt (co – giãn điều tiết).

 • 🩺 Khi can khí uất → mắt đỏ, đau, nhìn mỏi, chóng mỏi.

3. Tâm – Huyết luân

 • 📍 Vị trí: Khóe mắt (đặc biệt là phía trong và ngoài)

 • 💡 Trong các tài liệu cổ, ngoài việc mống mắt quy tâm thì khóe mắt (nơi có nhiều mạch máu nhỏ) cũng quy về tâm.

 • 🩺 Khi tâm huyết hư → mắt vô thần, hay chảy nước mắt, tim hồi hộp.

4. Phế – Khí luân

 • 📍 Vị trí: Lòng trắng của mắt (củng mạc)

 • 💡 Phế chủ khí, giúp huyết vận hành bình thường.

 • 🩺 Khi phế khí hư → mắt khô, dễ viêm kết mạc.

5. Tỳ – Cơ luân

 • 📍 Vị trí: Mi mắt trên và dưới (bờ mí, da quanh mắt)

 • 💡 Tỳ chủ cơ nhục.

 • 🩺 Tỳ hư → mí mắt sưng, nhão, nặng mắt.

#nhanamyvien #bsnguyenxuanhung #yhct

 #YHCT


https://youtu.be/xi2KQj4UZwQ


mạch sáp - video youtube ngoạ long am


https://youtu.be/7WbVYbmymwg?si=b8GS8y-U5J1wSOtq


https://www.bilibili.com/video/BV1x4411C72y?p=2&spm_id_from=333.788.videopod.episodes


Mach kinh nội kinh


noi kinh, phon the


https://youtu.be/UbNUawzO6XE


https://www.gxtcmu.edu.cn/upload/history/jcyxy/uploadfiles/jys/2021/3/202103081116329654.pdf


https://thienthientrungvan.blogspot.com/2018/08/tim-ve-coi-nguon-chu-han-fast.html


OX Super is with Nguyễn Vinh and 

10 others

.

roesdnpotS8

m

34

b

90u

0

a

v

i2

r

2m5gl

 

1tut

2

7

1

 

lhm65

e

e

2

a

N

t

o

83umf1lu01

 ·

Địa Lý cổ truyền và mối quan hệ với Đông Y.

    ( Kinh nghiệm và trải nghiệm cá nhân, viết cho học viên lớp khí công và phong thủy, cũng như các gia chủ đã hữu duyên được tư vấn và xử lý về phong thủy của Độ Sinh Đường) 

    1. Bộ môn Địa Lý là một bộ môn chuyên xem xét các vấn đề của mảnh đất, cuộc đất tác động và ảnh hưởng lên con người và ngược lại.

   2. Bộ môn Địa Lý Cổ Truyền mà Độ Sinh Đường áp dụng, dựa trên nền tảng Phong Thủy Loan Đầu và Khí Trường của đất tương tác lên cơ thể con người. ( Chưa xét đến các bộ môn khác áp dụng trong phong thủy) 

  3. Từ các mối tương tác đó mà xem xét cùng thôi diễn sự ảnh hưởng của cuộc đất tới sức khoẻ, tâm lý, khí vận của các thành viên trong gia đình. 

  4. Tiên Đề 1: cơ thể mỗi người đều có 1 trường năng lượng đặc trưng riêng, và tương tác với không gian và môi trường xung quanh thông qua hệ thống luân xa và các huyệt vị trên cơ thể. 

  5. Tiên Đề 2: mỗi một cuộc đất ( mảnh đất, vùng đất) đều có đặc trưng riêng về bề nổi có thể nhìn thấy và cảm giác được qua các giác quan như hình thế, phong vận, mộc vận, thủy lưu; và bề chìm cảm nhận được thông qua luyện khí công, thiền định, khai thông nhãn như trường khí, địa mạch, thủy mạch và long mạch. 

  6. Và người làm bộ môn địa lý cổ truyền, trải qua học tập các kiến thức về phong thủy và thông qua rèn luyện khí công năng lượng và thiền quán, từ đó có thể quan sát được bề nổi và cảm nhận được bề chìm, từ đó hiểu được các vấn đề của cuộc đất. 

  7. Và bước tiếp theo, muốn áp dụng được phong thủy trong đông y, thì phải có kiến thức sâu sắc về sinh mệnh con người theo đông y. 

  8. Khi có đủ các yếu tố trên. Thì người làm Địa lý sẽ chuyển hoá năng lượng của mình ứng hợp với từng người cư trú trên mảnh đất đó. Từ đó cảm nhận và phán đoán ra tình trạng bệnh lý và tâm lý của mỗi người sẽ xuất hiện và diễn biến theo xu thế nào khi ở trên mảnh đất đó.

    Và điều này sẽ được chứng minh qua việc khán hạn về xu thế bệnh tật và vận khí xảy ra của mỗi cá nhân khi ở trên mảnh đất đó. 

  9. Khi đã khán đúng hạn, hiểu đúng vấn đề thì bắt đầu mới cân nhắc tới nên chỉnh sửa cái gì trong phong thủy. 

  10. Vì vậy nhiều gia đình có nhờ tôi đi xem đất, lúc mới đầu thấy tôi đi người không, không thấy cầm la kinh, con lắc, đũa dò... giống như các thầy khác thì thấy thắc mắc. 

   Thực ra không có gì lạ, vì phương pháp làm địa lý theo trường phái tôi học, là biến chính mình thành La Kinh và Con Lắc. 

   11. Làm phong thủy, luôn luôn nhớ khẩu quyết:

     < Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự Nhiên> 

     <Tiên tích Đức, Hậu tầm Long>

     <Phúc nhân cư phúc địa>

     <Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần kinh>

   Ps: năm nay dịch bệnh, đành thất hứa với một số gia chủ vì không sắp xếp được lịch để giúp mọi người. 

   Độ Sinh Đường

   Đường Chủ: Hứa Nhất Hanh


Có Nhiều bạn hỏi vì sao tôi bỏ ra nhiều công sức để học Huyền Học như vậy, liệu nó có đáng hay không? 

    Đáp: Thật sự thì tôi học và nghiên cứu chỉ vì thích thôi, nên không thấy có vấn đề gì là đáng hay không đáng.

     Một số bạn nhờ tôi hướng dẫn, nhưng trình độ có hạn nên cũng mạn phép trình bày một số vấn đề tôi gặp sau gần 8 năm bước chân vào con đường huyền học. Hi vọng giúp ích cho một số bạn mới tìm hiểu. 

    1. Trong số các bệnh nhân tới gặp tôi khám bệnh, có khoảng 10% bệnh nhân có các bệnh liên quan tới Phong Thủy, Trường Năng Lượng. 

   2. Điều kiện cần và đủ để bệnh nhân "Bị Tác Động" bởi yếu tố Phong Thủy và Trường Năng Lượng, là 《CƠ ĐỊA- THỂ CHẤT ĐẶC TRƯNG》của người bệnh phải đủ 《NHẠY CẢM》.

  3. KHÔNG có cuộc đất xấu, chỉ có cuộc đất HỢP và KHÔNG HỢP với người nào. ( phúc nhân cư phúc địa, người không đủ phúc thì dù có ở được tại phúc địa cũng bị họa hại, hoặc phúc địa bị phá hủy và ngược lại.) 

   4. Khi xem xét đến tương tác giữa cơ thể con người (tiểu vũ trụ) và môi trường xung quanh ( đại vũ trụ), tôi thường xem qua 3 yếu tố chính để đánh giá ( giống như chiếc kiềng 3 chân, thiếu chân nào thì cái kiềng cũng đều vô dụng). 

      (1). Xét Thiên Vận :Ngũ Vận Lục Khí để xem xét khí hậu biến thiên thay đổi chung của cả năm. Nhật Nguyệt Tinh Thần và Vân Vũ để xem biến thiên trong thời gian ngắn của hướng đó hoặc vùng đất đó.

      (2) xét Địa Vận: đầu tiên xem xét Loan Đầu để định vị tổng thể đặc điểm và tính chất cuộc đất, long mạch thủy mạch... sau đó tới Phong Thủy tâm linh để xem đất có "sạch" hay không, và Huyền không phi tinh để xem xét tọa hướng và sự thịnh suy theo vận trình của cuộc đất. 

     (3) xét Nhân Vận: Dựa Vào Tử Vi và nhân tướng học để xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe cũng như tâm lý trong các đại vận và tiểu vận. Sau Dùng Mai Hoa để xét trong khoảng thời gian ngắn.

     Sau đó thông qua phân tích thông tin từ 3 phần này, xác định sự việc và hiện tượng mà gia chủ gặp phải, sau đó hỏi lại gia chủ để gia chủ xác nhận có những hiện tượng hay sự việc như thế hay không. (Giống hệt bắt mạch, xem lưỡi, biết nguyên nhân và cơ chế thì sẽ đoán được triệu chứng). Nếu đưa ra các thông tin mà độ chuẩn xác nhỏ hơn 70% , thì coi như là thất bại, vì người thầy phong thủy chưa hiểu rõ được vấn đề còn tồn tại của cuộc đất.  

   5. Vì sao thời gian 2 năm gần đây tôi không thích tranh luận trên mạng, mà đều mời những bạn có ý kiến trái chiều tới giao lưu. Vì chỉ có vận dụng trên Thực Tế mới chứng minh được người đó có hiểu đúng và làm đúng hay không.

   6. Ví dụ: bệnh nhân trong hình, đến bắt mạch, tôi thấy mạch thái tố có báo hiệu của sự tổn thương phần khí (năng lượng sinh học) trên cơ thể bệnh nhân, đồng thời cảm giác được dòng khí lạnh + ẩm đặc trưng của những mảnh đất lấp ao, hồ nằm trên thủy mạch hàn.

     Hỏi bệnh nhân chân tay có lạnh nhiều, và cảm giác rờn rờn lạnh vùng sau gáy, nhà nằm trên nền đất ao cũ. Bn xác nhận có

     Cụ thể còn liên quan tới một số thứ bất tịnh, xin không trình bày rõ tại đây. 

     Cơ thể bệnh nhân là thể chất đặc trưng của hàn thấp, nên khi ở trên mảnh đất này bị cộng hưởng mà bệnh nặng lên, hay bị cảm lạnh, trúng hàn.

    Sau khi chuyển nhà được hơn 1 tháng tới nơi đất ấm, đã không còn các triệu chứng cảm lạnh.

     Vậy trường hợp này dùng thuốc chữa hàn mà bệnh nhân cứ ở trên mảnh đất có khí hàn thấp này, thì chữa đến bao giờ mới khỏi? 

     Ps: bài viết nhân dịp chuẩn bị cho lớp phong thủy cổ truyền dành cho các bạn đủ DUYÊN đến am tháng 7 âm này. 

     Học môn này giống như bạn đi chơi trên bờ vực, không vững tâm và cẩn thận là sảy chân xuống vực sâu muôn trượng vạn kiếp bất phục. Nếu nhẹ thì phá khí, sau sẽ đau nhức và bệnh tật linh tinh, nặng thì nhập ma, điên điên dở dở. 

      Vì vậy tâm không đủ thành, lòng chưa đủ sạch, mong dùng môn này để kiếm kế sinh nhai thì xin quay đầu là bờ.


CHÚC DO <<祝由十三科>> là một bộ môn hay bị hiểu lầm. 

            Thực sự bản chất của môn chúc do là dùng một trường năng lượng của tha lực để giúp sửa chữa và tái tạo và quân bình lại cơ thể năng lượng của bệnh nhân. Và chuyên điều trị những bệnh không có tổn thương thực thể hoặc có tổn thương thực thể do rối loạn nặng về cơ thể năng lượng của bệnh nhân, và khi thăm khám thì không tìm ra nguyên nhân theo tây y và đông y cận đại. 

             Bộ môn này được ghi chép lại trong thiên DI TINH BIẾN KHÍ LUẬN trong cuốn sách KINH ĐIỂN của đông y là HOÀNG ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN. 

             Nhưng có một vấn đề khiến cho bộ môn này không được truyền bá rộng rãi, mà chỉ được lựa chọn người có đủ duyên để truyền do tính chất nguy hiểm ẩn tàng của nó. 

             Vào tay người thầy thuốc thì nó dùng để sửa chữa các rối loạn trên cơ thể năng lượng/ trường sinh học/ “khí” của bệnh nhân. Nhưng nếu nó rơi vào tay người xấu, thì việc phá hoại cơ thể năng lượng của người khác là việc quá dễ dàng ( thư ếm) . ( các bạn có thể tham khảo những bạn đã học qua lớp nội gia quyền của Độ Sinh Đường thì sẽ biết, các bạn đó là người luyện khí công nên có trải nghiệm rất rõ).

            Bn trong video chính là bn mờ mắt sau tai nạn. Nhưng sau khi đi sâu vào kiểm tra phát hiện một ấn ký linh phù từ bụng kéo vòng qua trục nhâm đốc và đi lên đầu, gây ra sự xáo trộn của vòng nhâm đốc mà gây ra hiện tượng người váng vất, mệt mỏi, không tỉnh táo, đi khám tây y và đông y truyền thống không tìm ra nguyên nhân. Sau đó tôi quyết định giải đi ấn ký linh phù trong người bệnh nhân và quân bình lại năng lượng thì đã có kết quả rõ rệt. 

          *** tóm lại, Bộ Môn CHÚC DO THUẬT bản chất cũng không khác gì với khí công, đều là dùng tha lực để sửa đổi năng lượng/ khí cho bệnh nhân. Nhưng khí công là truyền trực tiếp, thời gian tác dụng phụ thuộc vào trình độ của khí công sư; còn bộ môn chúc do là khí công sư đưa năng lượng vào linh phù, và từ đó sẽ xử lý được các vấn đề tinh tế hơn hiệu quả và ổn định hơn. 

            Và trong lĩnh vực phong thuỷ, khi tìm ra nguyên nhân của rối loạn năng lượng trong cuộc đất, thì sử dụng bộ môn chúc do này để quân bình được rối loạn, từ đó đem lại sức khoẻ và đầu óc sáng suốt cho người ở trên cuộc đất. ( phần này trong phong thuỷ không gọi là chúc do mà gọi là linh phù, bùa chú....; còn về việc liên quan đến phần tâm linh như trấn yểm, chiêu tài, trừ tà, khai quang lại là một lĩnh vực hoàn toàn khác.). 

    Ps: một chút thông tin chia sẻ cho các bạn đang nghiên cứu và tìm hiểu về bộ môn thứ 13 của đông y, hay tên thường gọi là CHÚC DO THẬP TAM KHOA. 

                    Diệu Thủ Quán Âm


https://www.facebook.com/groups/1015598060323193/


https://youtu.be/FTIK4rbxClM?t=577Y đạo:

TẢN MẠN ĐÔNG Y PHẦN 2: KHÍ CÔNG VÀ ÂM BA CÔNG

     Trong nhiều lần tổ chức giao lưu về khí công, tỉ lệ vàng của thuốc, phong thủy ,chúc do thuật năm 2018 vừa qua, có rất nhiều bạn khi tới với tôi đã được tự mình cảm nhận về khí, đặc biệt có một số bạn còn luyện được quả cầu khí âm dương, hai bạn luyện được cách cảm khí và năng lượng của thuốc chỉ trong thời gian của 1 buổi giao lưu. 

     Sau mỗi buổi giao lưu các bạn đều có những thắc mắc riêng, và có những câu hỏi về khí công. Mình không biết gì nhiều, chỉ là người trải nghiệm cũng xin viết lại đôi điều mình biết trong quá trình luyện. 

     I. Khí Công

     Bản chất: bất cứ ai và bất cứ vật nào đều tồn tại "khí" hay "trường năng lượng" riêng. Con người cũng vậy, luyện khí công chính là để cảm nhận được sự tồn tại của khí, tiến tới chế ngự và sử dụng nó để đạt tới trạng thái "Vô Vi" hoặc "Cốc Thần" tùy tâm sở dục.

     Khí công lại chia ra thành 3 nhánh chính:

1. Tiểu Chu Thiên: 

  -Đả Thông hai mạch Nhâm Đốc để nối thành vòng tiểu chu thiên. 

  Luyện có 2 cách:

 Thứ nhất là tụ khí về 1 trong 3 đan điền thượng, trung, hạ (hoặc là cả 3 cùng tụ), sau đó điều cho chạy lần lượt qua các huyệt trên 2 mạch nhâm đốc (có thể xuất phát từ bách hội đi xuống đản trung... Nhưng cũng có thể xuất phát từ đản trung đi xuống khí hải... Và nhiều điểm xuất phát khác tùy vào mục đích ban đầu của người luyện). Cách này dành cho người căn cơ thấp- khí yếu.

 Thứ hai là cảm khí và dẫn khí qua từng huyệt (không cần phải tụ vào tam điền) và dần dần dẫn đi theo các huyệt. Cách này dành cho người căn cơ cao- khí mạnh.

+Luyện theo đả thông nhâm đốc không điều tâm thì dễ bị tẩu hỏa. Bản thân mình khi luyện bị tẩu hỏa vài lần, mặt nóng bừng, một vài nơi trên người bóng rát và tê bì, đầu căng và nhức. Cầu thần thông và siêu việt thì dễ bị Nhập ma, mình bị 1 lần, có khả năng khán việc sắp xảy ra, nhưng hiện tượng đa nhân cách xuất hiện khiến mình không còn là mình, không khống chế được thất tình cùng lục căn của chính mình. May mắn âm đức chưa cạn nên mấy lần đều được quý nhân xuất hiện cứu thoát nạn.

- Đả thông hệ thống 7 luân xa- Hỏa Xà

Có 2 cách luyện chính: 

Thứ nhất là luyện từ lx1 hoặc lx2 lên lx7: cách này nguy hiểm, nếu tâm không vững thì giai đoạn đầu sẽ bị những bản năng thấp hèn và tham sân si chiếm lấy tâm. Mình cũng đã bị và gây ra khá nhiều việc khiến giờ vẫn còn hối hận.

Thứ hai là luyện từ lx7 xuống lx1, cách này thì mình sử dụng trong thời gian còn làm ở thiên tân, cái hay của cách này là sau khi thu năng lượng- khí, thì mình làm không biết mệt. Nhưng hôm nào mà làm ít bệnh nhân thì luồng khí bạo tẩu khiến người bồn chồn bứt rứt, nóng nực, khô miệng, phải vận động tới khi nào hết luồng khí đã thu thì người mới về bình thường.

+ một vài cách luyện khác của hệ 7 luân xa mình mới trải nghiệm như thu từ lx6 lên lx7 xuống lx 5.... Và thu từ lx4 chờ đủ thì dẫn cân bằng cả lên và xuống...

Còn nhiều trải nghiệm siêu hình khác trong lúc luyện môn này mình xin phép không kể trong phạm vi bài viết này.

2. Đại Chu Thiên:

Sau khi luyện xong Tiểu Chu Thiên, thì bước tiếp theo là dẫn khí đi ra thập nhị kinh mạch nối thông ngũ du huyệt, kết hợp với tiểu chu thiên khiến tiểu vũ trụ hợp nhất với đại vũ trụ. 

Phương pháp luyện đại chu thiên thuộc về mật truyền, không có đủ tâm ấn sẽ không được luyện. Vì vậy sẽ không chia sẻ về cách luyện tại đây.

Khi luyện được đại chu thiên là lúc người luyện có khả năng khám và chữa bệnh cho những người bị tổn thương về cơ thể năng lượng- cơ thể khí ( chính những bạn hay dau nhức khi làm cho bệnh nhân, khi đi vào nơi nhiều âm khí... Là do cơ thể năng lượng bị tổn thương do trược khí bám vào gây ra, do khí của họ không đủ để tự làm sạch cơ thể khí của chính họ- nôm na là sức đề kháng của cơ thể năng lượng của họ kém).

Khi luyện được đại chu thiên sẽ bắt đầu có cơ hội cảm nhận được "khí" của vị thuốc, từ đây mới hiểu được câu "khí quy hình" trong nội kinh đang nói cái gì. Và cũng tự cảm nhận được sự thăng giáng phù trầm của thuốc thông qua khí của thuốc, những thứ này các bạn giao lưu bên tỉ lệ thuốc đã được trải nghiệm


Khi luyện đại chu thiên bước vào giai đoạn "Cốc Thần", thì sẽ tầm long được, và biết được long gì, hoàng huyền xích bạch thanh, thiện hay bất thiện, từ đâu tới và đi về đâu. Đây là lý do vì sao thầy phong thủy ngày xưa tầm long biết được giếng nước này là từ đâu tới,đào ở đâu sẽ làm mất nước ở giếng này.

Và còn rất nhiều ứng dụng sau khi luyện tới đại chu thiên, tùy tâm người luyện khí công mà có các cách dùng khác nhau và ứng dụng khác nhau.

3. Khí Công Tâm Linh

Phần này liên quan tới dòng truyền thừa, tôi có may mắn khi giữa năm 2018 được một vị Minh Sư truyền thụ. 

Trong khí công 2 mục trước ai cũng sẽ luyện được và sẽ có thành tựu nhất định. Nhưng khí công tâm linh này trọng 1 chữ "duyên", không đủ duyên sẽ không học được.

Ứng dụng của nó là phi thế gian, vì vậy cũng không chia sẻ tại đây.

II. Âm Ba Công

Bản chất của âm ba công là dùng 1 số âm tiết đặc biệt, kết hợp kỹ thuật nén âm và điều âm để tạo ra và khống chế sóng âm "nghe lời" người luyện.

Trong đó cách luyện cơ bản nhất mà tôi dùng là dẫn âm ba đả thông Tam Điền. Sau đó mới đi vào các dòng phái khác.

Âm Ba Công có nhiều dòng phái, Tôi luyện qua 4 dòng của âm ba công là:

Âm Ba Công đả thông thập nhị kinh mạch

Âm Ba công Đả Thông thập Kinh Cân (đây là 1 trong những cơ sở để tôi sáng tạo môn châm cứu kinh cân và châm vận động theo phương pháp mới)

Âm Ba Công Hộ Thể 

Âm Ba Công Hộ Ma

  Ứng dụng của âm ba công là rất rộng, dễ tập, ít nguy hiểm. Nhưng do sử dụng một số âm tiết đặc biệt có gây chấn động tới cung khác, cho nên chỉ nên tập khi có minh sư hướng dẫn để "Nhập thủy bất động ba".

    *** khí công hay âm ba công đều chia ra động công và tĩnh công. Vd Trong khí công phần động công có thái cực quyền, bát đoạn cẩm, dịch cân kinh... Tĩnh công có quán tưởng, nội thị.. Động hay tĩnh chẳng qua là do căn cơ của người tập phù hợp với động hay tĩnh, người tập thấy hợp với công pháp nào thì chọn, không nên gượng ép vào tập công pháp không phù hợp mà gây ra loạn khí.

     Khí công và năng lượng còn có rất nhiều môn phái và cách tập luyện cùng hệ thống nền tảng khác, cùng nhiều mật pháp. Bài viết trên đây chỉ là trải nghiệm của tôi trong quá trình luyện khí, các bạn chỉ nên xem nó là một tài liệu tham khảo, đừng cho nó là đúng.

   Ps: có bạn hỏi tôi tại sao lại bước vào luyện kc công? Đó là do trong lúc học về Kinh Lạc và Châm Cứu, khí và kinh lạc quá mơ hồ và khó nắm bắt, tôi muốn được tự thân cảm nhận về hệ kinh mạch cho nên mới luyện. Không ngờ 1 bước sa chân, luyện cho tới giờ luôn. ^=^

       Độ Sinh Đường - OX Super— with Lực Hoàng and 

42


https://www.facebook.com/ox.super/posts/pfbid0oxSpYisYVzNemcHK1R3NohRyRCpiDJvq4ZA88Ly7DpyNZ3mfRGFK5cF7Qp8fbr9Yl?__cft__[0]=AZWEhpIh5deKq3M1-KmRnvvwuubDVem1vFmZmdUTMh5-OstQ2HFlxuquF6QxRX7JYIXNRzPm2a_TOCmCH6dqKsVh2wMDpiu_H7XxEa568kGAEmXMhxnD9uS9pGx2h_u7muyM8YhWhop5s8-RA35Z3wCcyh_xLBrswTZHIJjYF2s8DiRLtAlK5C0BHzKK-h-2AjI&__tn__=%2CO%2CP-R


dia chi thay ox


Tản mạn đông y phần 1: <<mạch chẩn và con đường thoát khỏi mê cung>>

     Có rất nhiều bạn đến các buổi giao lưu do tôi tổ chức đều được trải nghiệm trực tiếp cách bắt mạch tôi đang sử dụng, các bạn học viên lớp mạch khóa 1 và 2, cùng các đệ tử thường xuyên xem tôi khám chữa bệnh đều biết mức độ chuẩn xác như thế nào. 

   Cho tới các bạn nhóm sinh viên y6 học viện đi khoa nội 2 yhct bộ công an tháng 10, một số sv y5 yhn ở khoa lão yhct hn và bác sĩ trong phòng mình đi, đều được trải nghiệm trực tiếp về độ nhạy mạch mình đang dùng.

    Và các bạn hầu như có chung những câu hỏi: * tại sao mình bắt mạch mà kể bệnh và triệu chứng độ chính xác lại cao như vậy? 

   *Mình học từ sách nào? 

   *Tại sao các bạn và nhiều người khác cũng đọc những cuốn sách về mạch như mình mà không đạt được khả năng chẩn mạch như mình? 

    Sách mình đọc gồm : Tần Hồ Mạch Học, tố vấn mạch quyết, Mạch Kinh, Định Ninh Tôi Học Mạch, Kỳ Kinh Bát Mạch Khảo, một số chương liên quan tới mạch trong Nội Kinh. 

    Tại sao các bạn đọc sách mạch giống mình mà không bắt được ra bệnh. Lý do rất đơn giản, đó là do các bạn đang <<Hiểu Sai>> ý cổ nhân nói. 

     Ví dụ đơn giản về cách mô tả mạch phù cho các bạn hiểu: 

     # mạch phù như khúc gỗ nổi trong nước, ấn xuống lại đẩy lên - đây là các cụ mô tả tổng khán cả ống mạch.

    # mạch phù như gió thổi trên lông vũ- đây là các cụ mô tả dạng sóng dao động trên thành mạch, đặc chưng cho chứng phong , nếu như bắt dc ở bộ tỳ thì bệnh nhân bị rối loạn tiêu hóa khi ăn đồ lạ, nếu mạch lại kèm cả hơi lạnh bốc ra thì bn gió thổi vào bụng bị đau bụng đi ngoài...

  # mạch phù huyền tế, có sách viết là mạch song huyền, tức là bắt ở khinh án sẽ sờ thấy một sợi mạch nhỏ chạy kèm, đặc chưng cho phong hàn tà xâm nhập kinh lạc. Đây chính là dạng mạch mà mình có thể xác định vị trí đau cụ thể ở đâu....

   # mạch phù nhu như tấm lụa nổi trên mặt nước - đây là mô tả cấu trúc thành mạch có sự bất thường dẫn tới sức căng thay đổi ( xuất hiện ở thốn đặc hiệu trong chứng vqkv do yếu tố thấp)

   => các bạn bắt sai do các bạn không đứng trên hệ quy chiếu của người viết, mà cứ đứng theo hệ quy chiếu của người khác.

***Một dạng mạch khác cao hơn là mạch thái tố:

     bộ mạch này một số bạn biết mình làm về phong thủy, đã được chứng kiến mình mô tả về mảnh đất mà bn ở như thế nào, có cốt hay không, có long từ đâu chạy tới... (Điển hình là mùng 8 tháng giêng vừa rồi bn tới khám , mình bắt mạch và nói ngay nhà bn ở trên đất nghĩa địa, bn ko tin, mình bắt gọi về cho bố mới xác nhận đúng đát đó trước kia là bãi nghĩa địa), ở khoa lão yhct hn tuần trước bác sĩ cùng phòng cũng dc xem cách mình bắt mạch khán đất cho bn.

     Có những bạn hay đau nhức linh tinh trên người, do phần vô hình gá vào . mình hướng dẫn cách xử lý xong là ổn định...

     Muốn bắt được mạch thái tố buộc phải có tâm ấn mới học được, là một dạng mạch chọn người cho nên các bạn nên lượng sức để không phí công theo đuổi, dạng mạch bình thường bắt bệnh rất dễ học, miễn là các bạn đừng có nghe theo mấy người không biết bắt mạch đi dạy mạch và chớ học theo man thư.

        Độ sinh đường- Ngô Tiến Hưởng/ super ox


https://www.facebook.com/groups/318425499345789/

Giai ma Dong y Do Sinh Duong


Tản Mạn Đông Y: Phần 2 《 Niệu Chẩn Và Yếu Tố Liên Quan 》

     1. Niệu - nước tiểu, theo quan điểm của đông y là do Thận 《Khí Hóa》 Âm Huyết , để giữ lại chất thanh tái sử dụng và đưa chất trọc ra ngoài 

   2. Thận Chủ Khí hóa, có 2 phần: Khí Hóa Bàng Quang tạo ra nước tiểu và khí hóa Âm Huyết để phân thanh trọc.

   3. Như vậy, thông qua việc Xem và Hỏi về nước tiểu và các vấn đề liên quan, chúng ta có thể phán đoán được tình trạng của Âm Huyết và đánh giá được chức năng KHÍ HÓA của thận. 

  4. Bệnh nhân:

     ngoại cảm Phong Nhiệt, (vd: Nhiệt Nhập Khí Phận, bn sốt Cao, ra nhiều mồ hôi, mạch hồng đại), phong tính tẩu tiết, làm phế tuyên phát bị tăng cường mà gây ra nhiều mồ hôi, làm hao tổn tân dịch 《 Âm Huyết Thiếu》 thì bệnh nhân khi đi tiểu lượng sẽ ít, nước tiểu sẫm màu. (Tiểu đỏ, sẻn)

     ngoại cảm phong hàn (Thái Dương Thương Hàn / Biểu Thực) , hàn ngưng khiến phế không tuyên phát cho nên bệnh nhân không ra được mồ hôi, thủy dịch ứ đọng lại trong huyết dịch từ đó bn sẽ đi tiểu lượng nhiều, trong. (Tiểu trong, dài) 

  5. Khi bệnh nhân đi tiểu đục, tiểu sủi bọt nhiều mà không đau ( niệu trọc), là do thận Khí không khí hóa được, không Phân Thanh Trọc được. Khi đó nên dùng bài Tỳ Giải Phân Thanh Ẩm để trợ cho chức năng khí hóa phân thanh trọc của thận. ( tỳ giải phân thanh trọc, ích trí nhân ôn ấm thận dương, ô dược hành khí ở hạ tiêu, thạch xương bồ thông cửu khiếu) 

  6. Khi bệnh nhân đi tiểu đục, tiểu có váng, mà đau hoặc rát, hoặc buốt khi đi tiểu ( lao lâm, cao lâm..) thì đó là do có thấp nhiệt hạ trú hạ tiêu (cụ thể là thận), làm ảnh hưởng chức năng khí hóa phân thanh trọc của thận, khi đó dùng bài Trình Thị Tỳ Giải Phân Thanh Ẩm để trừ thấp nhiệt ,trợ thận khí hóa (tỳ giải phân thanh trọc, phục linh bạch truật trừ thủy thấp, hoàng bá thanh nhiệt táo thấp ở hạ tiêu, liên tử tâm + xa tiền thanh nhiệt lợi thủy ở bàng quang chữa nóng rát buốt khi tiểu, đan sâm hành huyết, xương bồ thông cửu khiếu).

   7. Như vậy qua 2 bài tỳ giải phân thanh ẩm và trình thị tỳ giải phân thanh ẩm, 1 bài là do thận khí hư không phân thanh trọc được, 1 bài là do thấp nhiệt làm 《trở trệ》 chức năng phân thanh trọc của thận khí. 

   8. Với trường hợp Thủy Thũng mà bệnh nhân có kèm triệu chứng 《vô niệu hoặc Thiểu niệu》, là do thận khí không khí hóa Bàng quang, không tạo ra nước tiểu được gây ra chứng 《Long Bế》 vì vậy dùng pháp ôn (thận) dương vận thủy để khí hóa tạo nước tiểu( vd bài Chân Vũ Thang). 

   9. Chức năng thăng thanh của Tỳ biểu hiện sẽ là đi ngoài phân lỏng nát không thành khuân, chức năng phân thanh trọc của thận thể hiện ở nước tiểu đục trong. 

   10. Bàng quang có nhiệt là triệu chứng nóng rát trong vùng tiểu phúc, hoặc là kích thích gây buồn đi tiểu nhiều lần, nhưng lượng nước tiểu ít.

  11. Lâm chứng do nhiệt , là triệu chứng viêm niệu đạo, bệnh nhân có triệu chứng nóng rát và buốt khi dòng nước tiểu đi qua niệu đạo. 

   12. Di niệu , là hiện tượng đi tiểu xong rồi nhưng nước tiểu vẫn rỉ ra. 

   13. Tiểu són, là hiện tượng sau khi tiểu xong, mặc lại quần rồi thì có hiện tượng co nhóm cơ vùng sàn chậu và bàng quang, khiến nước tiểu còn sót lại trong bàng quang són ra ngoài.

   14. Di niệu và tiểu són đều do bàng quang khí hư, thận khí không điều tiết được khai hợp của bàng quang ( Nhưng di niệu là bệnh lý nặng nề hơn). Lúc này nên sử dụng pháp bổ thận khí để làm chủ khai hợp ( như bài súc niệu hoàn hoặc hoàng kỳ hổ phách tán...) 

   15. Ngoài ra còn 1 số vấn đề liên quan tới mùi và màu sắc của nước tiểu, độ lắng cặn và đổi màu/ mùi của nước tiểu theo thời gian cũng giúp chúng ta đánh giá thêm nhiều vấn đề khác ( phần này các bạn tìm hiểu thêm về niệu chẩn của Tạng Y, Trung y và Tây Y).  

       Bản quyền bài viết thuộc về: 

       Ngọa Long Am

       Am Chủ: Diệu Thủ Quán Âm

       Ths.bs Ngô Tiến Hưởng


Tản mạn Đông Y -- Phần 1:

    《 Thượng Thông Thiên Văn, Hạ Tri Địa Lý, Trung Tường Nhân Sự》

      1. Ngũ Vận: Bản chất của ngũ vận là việc cổ nhân quan sát và tìm ra quy luật vận hành của Thiên Can ảnh hưởng tới thời tiết trong 10 năm.

     2. Lục Khí : bản chất là quan sát và tìm ra quy luật vận hành của Địa Chi ảnh hưởng tới thời tiết trong 12 năm. 

    3. Ngũ Vận Lục Khí, bản chất là xem xét các tổ hợp của Thiên Can + Địa Chi khi đi kèm nhau sẽ hình thành dạng thời tiết nào. 

   4. Ngũ vận lục khí là nói tới sự thay đổi khí hậu theo chu trình 60 năm ( lục thập hoa giáp), nhưng nó phải tham chiếu theo nền tảng hằng định của khí hậu địa cầu là có 5 mùa theo ngũ vận (xuân - mộc vận, hạ - hỏa vận, trưởng hạ - thổ vận , thu - Kim Vận, đông - thủy vận), và chia ra 6 mùa theo lục khí ( phong mộc, quân hỏa, tướng hỏa, thấp thổ, táo kim, hàn thủy).

   5. Khi tham chiếu yếu tố thay đổi từ bên ngoài ( thiên can địa chi - khách khí), và yếu tố hằng định của thời tiết địa cầu ( chủ khí), khi đó chúng ta sẽ tìm ra quy luật vận hành của thời tiết trong 60 năm. 

   6. Địa lý - Phong thủy loan đầu , bản chất là xem xét địa hình địa mạo và các nhân tố ảnh hưởng tới sinh vật sống bên trên mảnh đất/ vùng đất đó. 

    7. Mỗi một mảnh đất/ vùng đất đó đều có đặc trưng "khí hậu" và địa mạo riêng, dẫn tới sự phân bố và phát triển của "sinh vật" sống ở trên mảnh đất/ vùng đất đó cũng khác nhau. 

   8. Khi xem xét ngũ vận lục khí 《THIÊN》 bắt buộc phải biết chúng ta đang đứng ở nơi đâu 《ĐỊA》, từ đó phối hợp xem xét cả Thiên Và Địa, chúng ta mới có thể đưa ra một mô hình khí hậu/ thời tiết gần sát nhất với Thực Tế của vùng đó trong năm đó. 

   9. Vì vậy nếu chỉ học Đơn Thuần ngũ vận lục khí thì cách nhìn sẽ sa đà vào lý luận mà mất đi ứng dụng thực tế, nếu sa đà vào Địa lý đơn thuần (phong thủy loan đầu) thì sẽ đánh mất đi sự diễn tiến phát sinh và biến dịch. Vì vậy cần kết hợp cả 2 để xem xét sẽ cho kết quả gần đúng nhất. 

  10. Con người khi sinh ra đều mang theo thể chất và tính cách riêng biệt (kể cả sinh đôi cùng trứng vẫn có sự khác biệt về thể chất và tính cách). 

  11. Vì vậy khí hậu và địa lý sẽ có ảnh hưởng khác nhau (tốt/xấu với từng cá thể), có thể tốt với người này, xấu với người kia. Vd thể chất phế thấp thịnh, khi trời nồm sẽ tức ngực khó thở đờm dãi nhiều; nhưng với người phế Táo thì sẽ bớt cảm giác khô ráp của da, bớt cảm giác nóng bức trong người. 

   12. Để xem thể chất 1 con người, cần thông qua tứ chẩn của đông y để đánh giá từng cá nhân cụ thể《Nhân》.

   13. Khi xem xét được cả 3 yếu tố 《Thiên , Địa Nhân》, bước tiếp theo mới đánh giá 3 yếu tố này tương tác với nhau như thế nào, từ đó đánh giá được tình trạng và diễn biến sức khỏe của từng cá nhân cụ thể. 

   14. Thiên Địa Nhân còn nhiều cách xem và nhiều hệ quy chiếu khác, nhưng căn bản dù xem theo cách nào thì cũng không thể tách rời Thiên Địa Nhân để xem, kể cả là xem theo tâm linh. 

    Độ Sinh Đường.

    Đường Chủ: Hứa Nhất Hanh

    Ths.bs Ngô Tiến Hưởng


Nhãn Thông

    (Kinh nghiệm cá nhân khi học huyền thuật) 

    1. Nhãn thông có nhiều cách gọi khác nhau tuỳ công năng, như thiên nhãn, âm dương nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn…

   2. Gọi là nhãn thông, là khi mà hành giả không cần trực tiếp tới cũng “nhìn” thấy được các hình ảnh và câu chuyện.

   3. Mắt âm dương, có hai thành tố cấu thành là âm nhãn và dương nhãn. 

   4. Âm nhãn chuyên soi phần âm gian, soi mộ phần, soi hồn phách, người đã khuất…

   5. Dương nhãn chuyên soi phần dương gian, nhà cửa đất đai, đồ vật, thành viên trong gia đình… 

   6. Thiên Nhãn là hình thức nâng cấp của mắt âm dương, nhìn vượt xa khỏi hai cõi dương gian và âm gian. Ở mức độ này có thể thấy cõi thiên, cõi ngục và một số cung cõi khác tuỳ khả năng.

   7. Pháp Nhãn, là thần thông mà các phù sư và thầy phong thuỷ mong cầu. Đặc điểm của pháp nhãn là soi được bản nguyên cấu thành và vận hành . Ví dụ như khả năng nhìn thấy long mạch, nhìn thấy các dòng năng lượng của Lôi Điện Vân Vũ, của phù ấn, nhìn thấy cấu thành năng lượng của kinh lạc, luân xa, thảo mộc, khoáng thạch, pháp khí….

   8. Huệ nhãn, có thể coi là mức độ đại thành của nhãn thông. Và là bước quan trọng để dẫn nhập vào Túc Mệnh Thông, soi được quá khứ, nhìn thấy quỹ tích tương lai. 

  9. Luyện nhãn thông có rất nhiều cách. Trong đó đơn giản nhất và dễ có thành tựu nhất là luyện mắt âm ( luyện hương, luyện đèn, rửa phù, điểm nhãn), khó nhất là huệ nhãn ( cần thể nhập tính không và đạo hạnh). 

  10. Chúc Do Thuật , chúc do thập tam khoa của đông y, khi nhập môn chân chính ngoài âm dương nhãn bắt buộc phải có pháp nhãn. Nếu không mãi mãi chỉ là kẻ đứng ngoài cửa, nhặt lại rác của các bậc cổ đức…

   Ps: nhãn thông khi luyện thành thì phải là của mình, hành giả đóng mở tuỳ ý. Nếu còn phải cúng bái, niệm chú, dùng phù mới nhìn được thì chỉ là mắt “mượn” mà thôi. 

   Ngoạ Long Am

   Am Chủ: Diệu Thủ Quán Âm

   Độ Sinh Đường

   Đường Chủ: Hứa Nhất Hanh

   Ths.bs Ngô Tiến Hưởng/ OX Super


Các bạn muốn nghiên cứu Chúc Do hoặc Phong Thủy muốn gây ra ảnh hưởng trên cơ thể bệnh nhân như thế nào thì xem lại bài viết này.


Có Nhiều bạn hỏi vì sao tôi bỏ ra nhiều công sức để học Huyền Học như vậy, liệu nó có đáng hay không? 

    Đáp: Thật sự thì tôi học và nghiên cứu chỉ vì thích thôi, nên không thấy có vấn đề gì là đáng hay không đáng.

     Một số bạn nhờ tôi hướng dẫn, nhưng trình độ có hạn nên cũng mạn phép trình bày một số vấn đề tôi gặp sau gần 8 năm bước chân vào con đường huyền học. Hi vọng giúp ích cho một số bạn mới tìm hiểu. 

    1. Trong số các bệnh nhân tới gặp tôi khám bệnh, có khoảng 10% bệnh nhân có các bệnh liên quan tới Phong Thủy, Trường Năng Lượng. 

   2. Điều kiện cần và đủ để bệnh nhân "Bị Tác Động" bởi yếu tố Phong Thủy và Trường Năng Lượng, là 《CƠ ĐỊA- THỂ CHẤT ĐẶC TRƯNG》của người bệnh phải đủ 《NHẠY CẢM》.

  3. KHÔNG có cuộc đất xấu, chỉ có cuộc đất HỢP và KHÔNG HỢP với người nào. ( phúc nhân cư phúc địa, người không đủ phúc thì dù có ở được tại phúc địa cũng bị họa hại, hoặc phúc địa bị phá hủy và ngược lại.) 

   4. Khi xem xét đến tương tác giữa cơ thể con người (tiểu vũ trụ) và môi trường xung quanh ( đại vũ trụ), tôi thường xem qua 3 yếu tố chính để đánh giá ( giống như chiếc kiềng 3 chân, thiếu chân nào thì cái kiềng cũng đều vô dụng). 

      (1). Xét Thiên Vận :Ngũ Vận Lục Khí để xem xét khí hậu biến thiên thay đổi chung của cả năm. Nhật Nguyệt Tinh Thần và Vân Vũ để xem biến thiên trong thời gian ngắn của hướng đó hoặc vùng đất đó.

      (2) xét Địa Vận: đầu tiên xem xét Loan Đầu để định vị tổng thể đặc điểm và tính chất cuộc đất, long mạch thủy mạch... sau đó tới Phong Thủy tâm linh để xem đất có "sạch" hay không, và Huyền không phi tinh để xem xét tọa hướng và sự thịnh suy theo vận trình của cuộc đất. 

     (3) xét Nhân Vận: Dựa Vào Tử Vi và nhân tướng học để xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe cũng như tâm lý trong các đại vận và tiểu vận. Sau Dùng Mai Hoa để xét trong khoảng thời gian ngắn.

     Sau đó thông qua phân tích thông tin từ 3 phần này, xác định sự việc và hiện tượng mà gia chủ gặp phải, sau đó hỏi lại gia chủ để gia chủ xác nhận có những hiện tượng hay sự việc như thế hay không. (Giống hệt bắt mạch, xem lưỡi, biết nguyên nhân và cơ chế thì sẽ đoán được triệu chứng). Nếu đưa ra các thông tin mà độ chuẩn xác nhỏ hơn 70% , thì coi như là thất bại, vì người thầy phong thủy chưa hiểu rõ được vấn đề còn tồn tại của cuộc đất.  

   5. Vì sao thời gian 2 năm gần đây tôi không thích tranh luận trên mạng, mà đều mời những bạn có ý kiến trái chiều tới giao lưu. Vì chỉ có vận dụng trên Thực Tế mới chứng minh được người đó có hiểu đúng và làm đúng hay không.

   6. Ví dụ: bệnh nhân trong hình, đến bắt mạch, tôi thấy mạch thái tố có báo hiệu của sự tổn thương phần khí (năng lượng sinh học) trên cơ thể bệnh nhân, đồng thời cảm giác được dòng khí lạnh + ẩm đặc trưng của những mảnh đất lấp ao, hồ nằm trên thủy mạch hàn.

     Hỏi bệnh nhân chân tay có lạnh nhiều, và cảm giác rờn rờn lạnh vùng sau gáy, nhà nằm trên nền đất ao cũ. Bn xác nhận có

     Cụ thể còn liên quan tới một số thứ bất tịnh, xin không trình bày rõ tại đây. 

     Cơ thể bệnh nhân là thể chất đặc trưng của hàn thấp, nên khi ở trên mảnh đất này bị cộng hưởng mà bệnh nặng lên, hay bị cảm lạnh, trúng hàn.

    Sau khi chuyển nhà được hơn 1 tháng tới nơi đất ấm, đã không còn các triệu chứng cảm lạnh.

     Vậy trường hợp này dùng thuốc chữa hàn mà bệnh nhân cứ ở trên mảnh đất có khí hàn thấp này, thì chữa đến bao giờ mới khỏi? 

     Ps: bài viết nhân dịp chuẩn bị cho lớp phong thủy cổ truyền dành cho các bạn đủ DUYÊN đến am tháng 7 âm này. 

     Học môn này giống như bạn đi chơi trên bờ vực, không vững tâm và cẩn thận là sảy chân xuống vực sâu muôn trượng vạn kiếp bất phục. Nếu nhẹ thì phá khí, sau sẽ đau nhức và bệnh tật linh tinh, nặng thì nhập ma, điên điên dở dở. 

      Vì vậy tâm không đủ thành, lòng chưa đủ sạch, mong dùng môn này để kiếm kế sinh nhai thì xin quay đầu là bờ.


https://www.facebook.com/nOvEmBeRdReAM


Nguyễn Trọng Anh is at Khoa khám bệnh ĐKTYC bệnh viện phổi TW.

ootSeprdsn

t

l

O

2

2

 

um2c7

e

o

h

4

f63

 

c

1

2

i2i0c5ghi

r

061u1

b

1

0

a0ic

8

h

2

u70

 ·

Hanoi

 ·

🚨🚨🚨 B.N tiểu bọt (có lúc đục), rặn tiểu, mồ hôi nhiều đến kℎá𝑚.

🔥 Do đặc thù công việc nên B.N trước đây hay uống rượu, ăn uống nhiều đồ có đạm, tập luyện không dưỡng sức (B.N cũng là võ sư), đầu năm nay do cảm thấy sức 𝑘h𝑜‌e đi xuống nên đi kℎá𝑚 cℎữ𝑎 tại nhiều P.K không có tiến triển. Các 𝑡r𝑖ệ𝑢 𝑐h𝑢‌‌n𝑔 tăng nặng dần lên, tập luyện nhanh mệt, vã mồ hôi nhiều người dấp dính nặng nề khó chịu, tiểu nhiều đêm vài lần, khi đi tiểu giữa bãi phải rặn, tiểu rắt sau bãi lớn.

Mồ hôi vùng bìu bẹn nhiều, mùa nóng rất khó chịu muốn ăn uống đồ lạnh có đá, ăn uống đồ lạ dễ đi ngoài, ngày 3 4 lần phân nát.

🔥 Khán bệnh:

Thiệt 𝑐h𝑎‌‌n: chủ yếu các case đều thấy gốc lưỡi rêu trắng dày, tổng thể rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi đỏ giáng, hằn răng 2 bên.

Mạch 𝑐h𝑎‌‌n: Quan tả m𝑎‌cℎ huyền uất, Xích tả trầm tế, Thốn tả mạch trầm vi. Thốn hữu trầm tế, Quan hữu m𝑎‌cℎ nhược

🔥 Đánh giá: thủy thấp đình trệ tại trung tiêu, đàm trọc trệ tại hạ tiêu.

Khí hư, phế nhược làm trọc khí không giáng, dương không thăng thanh được.

Trên nền tỳ vị hư tổn, can khí không thăng được làm mất ổn định khí cơ.

Làm đàm trọc thủy thấp không thể vận hóa, uất xuống hạ tiêu gây nhị tiện bất lợi.

Thận lại hư không ôn dương khí hóa được càng làm tăng nặng triệu 𝑐h𝑢‌‌n𝑔.

👉👉👉 Như vậy cần phải ôn hóa đàm trọc hạ tiêu, hành khí kiện tỳ, dùng phương: 

Tỳ giải 

Xương bồ

Ô dược 

Chỉ xác 

Cát cánh 

Mộc hương 

Đảng sâm 

Sinh hoàng kỳ 

Bạch truật cám 

Xuyên luyện tử

Hoàng cầm 

Cam thảo 

✌️✌️✌️Trong đó Tỳ giải Ô dược Xương bồ lợi thấp hóa trọc thông lâm ôn hóa thận khí; Hoàng cầm Xuyên luyện thanh can tiết nhiệt; Đảng sâm Hoàng kỳ Bạch truật kiện tỳ ích khí vận hóa thủy thấp.

Phúc Sinh Đường

#thietchanlamsang

#thietchandosinhduong

#PKYHCT_Khoa_Khám_Bệnh_ĐKTYC_BV_Phổi_TW Y đạo:

Nguyễn Trọng Anh is at Khoa khám bệnh ĐKTYC bệnh viện phổi TW.

ootSeprdsn

t

l

O

2

2

 

um2c7

e

o

h

4

f63

 

c

1

2

i2i0c5ghi

r

061u1

b

1

0

a0ic

8

h

2

u70

 ·

Hanoi

 ·

🚨🚨🚨 B.N tiểu bọt (có lúc đục), rặn tiểu, mồ hôi nhiều đến kℎá𝑚.

🔥 Do đặc thù công việc nên B.N trước đây hay uống rượu, ăn uống nhiều đồ có đạm, tập luyện không dưỡng sức (B.N cũng là võ sư), đầu năm nay do cảm thấy sức 𝑘h𝑜‌e đi xuống nên đi kℎá𝑚 cℎữ𝑎 tại nhiều P.K không có tiến triển. Các 𝑡r𝑖ệ𝑢 𝑐h𝑢‌‌n𝑔 tăng nặng dần lên, tập luyện nhanh mệt, vã mồ hôi nhiều người dấp dính nặng nề khó chịu, tiểu nhiều đêm vài lần, khi đi tiểu giữa bãi phải rặn, tiểu rắt sau bãi lớn.

Mồ hôi vùng bìu bẹn nhiều, mùa nóng rất khó chịu muốn ăn uống đồ lạnh có đá, ăn uống đồ lạ dễ đi ngoài, ngày 3 4 lần phân nát.

🔥 Khán bệnh:

Thiệt 𝑐h𝑎‌‌n: chủ yếu các case đều thấy gốc lưỡi rêu trắng dày, tổng thể rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi đỏ giáng, hằn răng 2 bên.

Mạch 𝑐h𝑎‌‌n: Quan tả m𝑎‌cℎ huyền uất, Xích tả trầm tế, Thốn tả mạch trầm vi. Thốn hữu trầm tế, Quan hữu m𝑎‌cℎ nhược

🔥 Đánh giá: thủy thấp đình trệ tại trung tiêu, đàm trọc trệ tại hạ tiêu.

Khí hư, phế nhược làm trọc khí không giáng, dương không thăng thanh được.

Trên nền tỳ vị hư tổn, can khí không thăng được làm mất ổn định khí cơ.

Làm đàm trọc thủy thấp không thể vận hóa, uất xuống hạ tiêu gây nhị tiện bất lợi.

Thận lại hư không ôn dương khí hóa được càng làm tăng nặng triệu 𝑐h𝑢‌‌n𝑔.

👉👉👉 Như vậy cần phải ôn hóa đàm trọc hạ tiêu, hành khí kiện tỳ, dùng phương: 

Tỳ giải 

Xương bồ

Ô dược 

Chỉ xác 

Cát cánh 

Mộc hương 

Đảng sâm 

Sinh hoàng kỳ 

Bạch truật cám 

Xuyên luyện tử

Hoàng cầm 

Cam thảo 

✌️✌️✌️Trong đó Tỳ giải Ô dược Xương bồ lợi thấp hóa trọc thông lâm ôn hóa thận khí; Hoàng cầm Xuyên luyện thanh can tiết nhiệt; Đảng sâm Hoàng kỳ Bạch truật kiện tỳ ích khí vận hóa thủy thấp.

Phúc Sinh Đường

#thietchanlamsang

#thietchandosinhduong

#PKYHCT_Khoa_Khám_Bệnh_ĐKTYC_BV_Phổi_TW


https://www.facebook.com/nOvEmBeRdReAM/posts/pfbid028FXmsqspYFHxV9x21cmhDfjT4xQ36S28fijeQuuVpRWdWHSHtF9XZBZdYWSvafHKl?__cft__[0]=AZWuBPs_jseYqjTqYCIaRHppeRKiWWNuCWbYAMcHFORCeCJuC5cI4r_nqvh6kwVbqxFSAS8nkFO-qkQX-MS9QswSO2FoknOlAzNBGqfZdx7CVFecq1wRuj3ktawCPOWcaKlXiKRdREJswhyIOpD9MdBG8XVLyF9t9qkBM_N7uamnwA&__tn__=%2CO%2CP-R-R


SƠ ĐỒ CHẨN MẠCH – TẦM SOÁT TOÀN THÂN QUA HỆ MẠCH


(Đông y Độ Sinh Đường)


1. Xác định mục tiêu tầm soát – Khảo sát điều gì trong cơ thể?

Tùy theo mục đích lâm sàng, người thầy thuốc sẽ lựa chọn hệ quy chiếu mạch học phù hợp:


⭐️Tầm soát hình thể toàn thân: dùng Tam Bộ Cửu Hậu đối ứng Tam Tiêu – dựa trên hệ mạch kinh.

Cách bắt mạch này giúp tìm được vị trí cơ thể cụ thể như đầu mặt, tay chân, cột sống, xương chậu...


⭐️Tầm soát cấu trúc tạng phủ theo giải phẫu: dùng Chân Tạng Mạch – cũng thuộc hệ mạch kinh.

Giúp tìm được các tổn thương và rối loạn tương ứng. Ví dụ chân tạng mạch của tâm mà xuất hiện mạch tượng " như tuần dĩ nhân" giống như sờ vào hạt ý dĩ, thì tức là đang có rối loạn ở " vách liên thất", và điều chúng ta cần khảo sât tiếp là nó rối loạn ở hệ thống dẫn truyền thần kinh hay là rối loạn của cơ.


⭐️Tầm soát phân vùng chức năng tạng phủ: theo lý luận Nan Kinh – phản ánh sự phân công chức năng nội tạng.

Cách này giúp quy trách nhiệm cụ thể. Ví dụ tại vị trí phế chủ bì mao mà thấy mạch phù nhu, là hiện tượng thấp khí tràn ra ngoài da mà bn hay bị mề đay, mẩn ngứa. Nếu tại vị trí phế chi du tại kiên bối mà thấy mạch nhược tiểu, thì sẽ xuất hiện tình trạng đau mỏi vai lưng.


⭐️Tầm soát hệ kỳ kinh bát mạch: dùng mô hình Khí Khẩu – Cửu Đạo Mạch – chuyên khảo sát các rối loạn liên quan tới đường kinh.


⭐️Tầm soát khí cơ xuất nhập toàn thân: dùng hệ Tam Âm – Tam Dương trên hệ mạch kinh để đánh giá sự vận hành khí cơ.

Vd thái dương mà mạch tượng nhu nhược, thì bn hay sợ lạnh, ngày hay buồn ngủ, hay bị ốm vặt do vệ ngoại hư nhược.


2. Sau đó cần dựa vào mạch tượng ( 24-27 loại mạch tượng cổ điển hoặc 12 yếu tố chính + 5 yếu tố phụ trong mạch chi đạo) để phân tích tình trạng thực tế của khu vực khảo sát.

Việc bắt mạch giúp cảm nhận được khí huyết, hư thực, hàn nhiệt, và trạng thái hoạt động của từng hệ quy chiếu kể trên.


3. Cuối cùng, kết hợp y lý để suy diễn triệu chứng, đối chiếu với lời kể của bệnh nhân, hoặc kiểm nghiệm lại qua thăm khám thực thể, xét nghiệm cận lâm sàng nếu cần thiết.


OX Super is with Văn Khúc Thiên Lương and 

8 others

.

Favourites

 ·

topSedrons

 

a

c

2

f5f

 

4uu

O

1mma8glm8i0

o

8

0

8

a

2

6

t

5iat00tl3g

e

b

3g9f

r

1

6

 ·

Mệnh Môn Trong Đông Y

   ( chiểu theo kinh nghiệm và quan điểm cá nhân) 

 1. 《Tả Thận, Hữu Mệnh Môn》( nạn kinh, nạn 36) . Câu này là nói khi bắt mạch, xích trái là Thận, Xích phải là mệnh môn. 

2. Trên lâm sàng, khi bắt bộ xích phải ( Mệnh Môn) mà khinh án trầm án đều hư nhược, thì đa phần là xuất hiện các chứng liên quan tới " Tạng" hàn.

   Nếu mà mạch tượng khinh án phù việt, trung và trầm án hư nhược. Thì đa phần các chứng xuất hiện tại tạng phủ là hư phiền trong tạng, gây ra triệu chứng trong người cảm giác nóng khát nhưng uống nước mát nước lạnh thì lại càng thấy nóng nực khó chịu. Do mệnh môn hỏa phù việt. 

    Tây y các bạn có thể nghiên cứu đám rối dương. 

3. Bộ xích trái mà khinh án trầm án đều hư nhược, đa phần gây ra chứng ngoại hàn. Bn hay sợ gió, sợ lạnh, nhiệt độ cơ thể dễ bị thay đổi theo thời tiết, trời chưa nóng đã nóng, trời chưa lạnh đã lạnh. 

4. Bộ xích trái mà trầm án hư nhược, khinh án có tượng phù việt. Đa phần gặp chứng "ngoại nhiệt", thể hiện ra các triệu chứng chân tay nóng, mặt bốc nóng, nóng về chiều, và có quan hệ mật thiết với chứng tiêu khát ở người già. Đây là chứng thận âm hư, hư dương phù việt. 

   Tây y các bạn đối chiếu với các tuyến nội tiết như tuyến thượng thận, hoocmon sinh dục. 

5. Thận chủ tác cường, nên khi bộ xích trái phù án và trung án nhược, thì bn sức bền kém, hoặc cùng là đi tập gym, người có bộ xích trái nhược thì sức bền và sức nâng đều kém hơn người có cùng cân nặng. ( đi sâu còn nhiều vấn đề khác).

  6. 《Điểm khí động nằm dưới rốn và giữa hai thận, là nguồn gốc sinh mệnh của con người - Tề Hạ Thận Gian động Khí Giả, nhân chi sinh mệnh dã》( nạn 66), dựa vào câu nói này, mà một số học giả đời sau cho rằng đây là vị trí của Mệnh Môn.

  7. Thực tế vị trí 《Khí Động》 nằm dưới rốn và giữa hai thận, chính là Đan Điền khi hành giả tập khí công, vận công tụ khí đan điền hoặc nội thị thì mới cảm nhận được có "khí" máy động, vận chuyển ở đan điền. ( ở sâu phía dưới huyệt khí hải). 

  8. Cái nguồn gốc sinh mệnh của con người được nói ở đây, là đang mô tả một dạng "khí" / prama/ năng lượng sinh học/ trường sinh học/ năng lượng vũ trụ/ điển quang... liên quan tới người tập "Khí Công Năng Lượng". ( chú ý khí này không liên quan tới thiên khí- không khí hay là khí đến từ đồ ăn thức uống) 

   9. Ngoài ra, Mệnh môn còn được đặt theo tên huyệt nằm trên mạch đốc, bên cạnh có hai huyệt Thận Du. Nên có một số sách nói Mệnh Môn Nằm giữa hai thận, là dựa trên vị trí tương quan này của huyệt.

   10. Kinh nghiệm cá nhân Trên lâm sàng, khi cứu độc huyệt mệnh môn thì tạng sẽ ấm nhanh hơn. Khi cứu hai huyệt Thận du Thì triệu chứng sợ lạnh sẽ đỡ nhanh hơn. 

   11. 《Thái dương căn vu Chí Âm, Kết Vu Mệnh Môn, Mệnh Môn Giả, Mục Dã - Gốc của Thái Dương nằm ở huyệt Chí Âm, mà Kết ( quả) lại hiện ra ở Mệnh Môn,, mệnh môn Chính là Mắt》, đây là câu được mô tả trong Thiên Căn Kết của Linh Khu.

  12. Vậy mệnh môn ở đây là mắt, nếu xét theo huyệt thì có thể coi là huyệt Tình Minh. Nếu xét theo ý nghĩa, thì là thần thái sức sống của con người thể hiện qua đối mắt. Mắt còn thần là còn sống, mắt mất thần là khó sống, khó chữa.

     ☆ vì vậy quan điểm của tôi, khi các bạn muốn học đông y cổ điển, thì phải học rộng, hiểu sâu, trải nghiệm nhiều. Thì khi đó các bạn mới hiểu đúng, và kết quả khi áp dụng trên lâm sàng sẽ chứng minh điều bạn hiểu và bạn làm có đúng hay không.

   Ths. Bs Ngô Tiến Hưởng

   Ngọa Long Am


OX Super is with Văn Khúc Thiên Lương and 

6 others

.

Favourites

 ·

topSedrons

 

a

c

2

f5f

 

4uu

O

1mma8glm8i0

o

8

0

7

a

2

6

t

5iat00tl3g

e

b

3g9f

r

1

6

 ·

Tại sao Đông Y lại luôn có sự Mâu Thuẫn giữa các đồng nghiệp? 

     Sơ lược vài nét đơn giản để các bạn đồng nghiệp có thể tìm thấy câu trả lời. 

1. Phế thuộc kim, kim chủ giáng. Ấy vậy mà phế ngoài chức năng túc giáng thì lại còn "thêm" chức năng tuyên phát, đi ngược lại tính giáng của kim??? 

2. Thận thuộc thủy, tính chủ tàng. Thế nào lại lòi ra cái chức năng "khí hóa", thế là phải sinh ra khái niệm " Chân Hỏa" ẩn tàng trong thận 😄😄😄

3. Trong "Kim Quỹ Chân Ngôn Luận" của 《Hoàng Đế Nội Kinh》 có nói:

    +) "Nam Phương xích sắc, nhập thông vu tâm, khai khiếu vu nhĩ..."

    +) " Bắc phương hắc sắc, nhập thông vu thận, khai khiếu vu nhị âm" 

     Ơ, thế còn trong giáo trình nói thận khai khiếu ra tai là sao???

4. Thuốc thì có kinh giới vị cay tính ấm. Ấy thế mà công dụng thì toàn dùng để thanh nhiệt tán kết, như chữa mụn nhọt đinh độc, loa lịch, mạch lươn... 

5.cát căn thì vị cay, mà ăn vào chẳng thấy vị cay đâu cả..

6. Tố Vấn - Tứ Khí Điều thần Đại Luận nói: " Thượng công trị lúc chưa có bệnh" , " Hạ công trị khi đã có bệnh rồi". 

   Ấy vậy mà bậc 《Hạ Công》 trong Linh Khu- Tà Khí Tạng Phủ Bệnh Hình, lại còn chia ra 3 bậc nữa. Thượng công 10 chữa khỏi 9, trung công 10 chữa khỏi 7, hạ công 10 chữa khỏi 6. 

 7. Cho nên khi chúng tôi lười, học không tốt thì thầy tôi hay trêu: 

     《không biết c.hữa b.ệnh thì qua làm dưỡng sinh》 😄😄😄

     ☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆

    Ps: Đông Y thật ra không mâu thuẫn. Mà vấn đề nằm ở việc chưa thống nhất " khái niệm" và hệ quy chiếu, cộng thêm không đứng ở góc nhìn và kinh nghiệm của "tác giả", nên phân tích và hiểu biết có sự sai khác. 

   Ảnh Kỷ Niệm sáng sớm tại núi Thái Sơn năm 2014. 

    Ths.bs Ngô Tiến Hưởng/ OX Super


Seri chia sẻ kinh nghiệm cá nhân về huyền học trong tháng 07 âm. P1: 

   Quan điểm CÁ NHÂN khi tìm và nhờ thầy xem PHONG THỦY Dương Trạch

    1. Mỗi một cuộc đất đều có đặc trưng riêng, có tiềm năng thiên bẩm và có "sức khỏe" của riêng nó. Người thầy phong thủy là người tìm ra và nhìn rõ các đặc điểm cũng như sự vận hành của cuộc đất.

    2. Cũng giống như thầy thuốc đông y chuyên sâu, người thầy phong thủy chuyên sâu sau khi bước vào cuộc đất và khảo sát, không cần gia chủ hoặc người ở vùng đất đó kể, thầy sẽ đọc được các vấn đề đang tồn tại của những người sống ở cuộc đất đó, và gia chủ chỉ cần xác nhận có đúng hay không mà thôi.

   3. Khi đã Gọi là thầy Phong Thủy, mà chính thầy chưa tìm được 《cuộc đất cho chính mình ở》 , chưa tự làm được mọi thứ từ khi chọn đất, chọn ngày, lập đàn, động thổ, trấn yểm, dựng nóc, nhập trạch, an vị.... Vậy bạn có nên mời thầy đó hay không? 

   4. Khi thầy bảo làm cái gì đó để kích Tài Lộc mà trong khi đó nhà thầy còn chưa lo xong, thầy phải dựa vào việc đi xem 《phong Thủy》, bán vật phẩm phong thủy để kiếm tài lộc, vậy thì thầy kích cái gì cho nhà bạn trong khi bạn mới là người 《kích tài lộc》 cho thầy ??? 

  5. Trước Khi làm nhà, hoặc động thổ công trình, các bạn cần phải hỏi thầy: đất nhà con có long mạch không? Long mạch chạy từ đâu tới, đi qua đất nhà con ở chỗ nào? Sâu bao nhiêu??Và nó chạy về đâu??? 

   Nếu có thì cho con hỏi Long này là long gì? Sẽ tác động gì tới người ở trên đất??? Và phải làm thế nào để sống hòa hợp được với long??? 

    6. Đất có hạn của đất, có những cuộc đất bất kể là tuổi nào động thổ, thì người động thổ đều sẽ gặp họa hình thân, vì vậy xem tuổi làm nhà động thổ cũng chỉ là 1 trong nhiều yếu tố thôi.

   7. Mượn tuổi làm nhà hay mượn của các cụ trên 70, vì các cụ ko còn làm kinh tế, nên ko lo phá sản. Lỡ không may mà gặp hạn họa hình thì các cụ cũng đến tuổi trời rồi, con cháu đỡ ân hận... 

    8. Vì vậy các thầy cao tay thường khuyên gia chủ cho mượn của người trẻ, người có lộc. Giống như trồng cái cây, cần trồng cây còn tràn trề nhựa sống. Chứ cái cây già cỗi thì chăm tốt mấy thì thu hoạch cũng kém...

   9. 《Tiên Tích Đức, Hậu Tầm Long》 ☆ 《Phúc Nhân Cư Phúc Địa》 ☆ 《Phước Chủ, Lộc Thầy》

      Đây là 3 yếu tố then chốt để xem và chỉnh phong thủy thành công.

    Ps: tôi cũng may mắn được các chư vị ưu ái nên cũng đã có một mảnh đất để xây am, nếu các đồng đạo đang nghiên cứu bộ môn Tầm Long Điểm Huyệt, Ngọa Long Am rất vui được đón tiếp.

     Ngọa Long Am

     Am Chủ: Diệu Thủ Quán Âm

     Độ Sinh Đường

     Đường Chủ: Hứa nhất Hanh

     Ths.Bs Ngô Tiến Hưởng OX Super


Khí Công Đạo Dẫn….

    Gửi tặng các đệ tử và các bạn tham dự khí công khoá 1. 

    1. Khí công là phương pháp tập luyện để điều chỉnh và làm chủ khí/ năng lượng.

    2. Đạo Dẫn là các động tác và tư thế đặc biệt để điều hoà cân cơ xương khớp và sự lưu thông khí huyết tới các bộ phận và cơ quan mong muốn.

    3. Gọi là Khí Công Đạo Dẫn, là khi mà cơ thể và khí hoà hợp hoàn toàn với nhau (hiệp Khí), các động tác sẽ xuất hiện đi theo dòng chảy của khí, từ đó đạt được sự hợp nhất của toàn thân và để cơ thể được thư giãn sâu.

   4. Gọi là ý điều khí, là khi hành giả xuất hiện “ý”, thì động tác cũng theo đó mà thực hiện, như hình với bóng. 

   5. Khi thấy khí còn mạnh, động tác còn bị khí kéo đi, thì còn chưa hiệp nhất với khí.

    6. Khi thấy động tác nhẹ nhàng thư thái, không còn thấy khí vờn quanh, thì là lúc khí hiệp hiệp nhất.

    7. Giống như bạn đứng dưới mặt trời, bình minh và hoàng hôn sẽ “phóng Đại” cái bóng của bạn.

    8. Còn chính ngọ, cái bóng sẽ hiệp nhất hoàn toàn và “biến mất”. 

    Ps: chém thế thôi chứ tui lại đi cạo mía để kiếm xiền mua bỉm sữa cho con đây…

#Khicong

#ĐaoDan


Tra‌ Lo‌‌i cho 《CA‌U HO‌I》: Ta‌i sao mo‌i ngu‌o‌‌i cu‌ng đo‌c cuo‌‌n 《MA‌CH KINH》 cu‌a cu‌ Vu‌o‌ng Thu‌c Ho‌a, ma‌ co‌ ngu‌o‌‌i 《Ba‌‌t Đu‌o‌‌c Ma‌ch》 co‌ ngu‌o‌‌i la‌i《kho‌ng Ba‌‌t Đu‌o‌‌c Ma‌ch》?

     1. Do kho‌ng đu‌ chie‌‌u sa‌u va‌ đo‌‌ ro‌‌ng ve‌‌ ly‌ lua‌‌n cu‌ng nhu‌ chu‌a đu‌ kinh nghie‌‌m ve‌‌ la‌m sa‌ng. 

     2. Chu‌a bie‌‌t ba‌‌t ma‌ch la‌ ba‌‌t ca‌i gi‌ cu‌a ma‌ch.

     3. Kho‌ng đu‌ kie‌‌n thu‌‌c ve‌‌ Y Co‌‌ Va‌n va‌ kho‌ng ti‌m hie‌‌u bo‌‌i ca‌nh Va‌n Ho‌a cu‌ng nhu‌ li‌ch su‌‌ cu‌a tho‌‌i vie‌‌t sa‌ch. Ne‌n thu‌o‌‌ng phu‌ nha‌‌n ca‌c kha‌i nie‌‌m co‌ lie‌n quan to‌‌i huye‌‌n ho‌c, ma‌ kho‌ng chi‌u la‌‌ng ta‌m suy nghi‌ cho tha‌‌u đa‌o. 

    4. Lo‌‌i vie‌‌t va‌n 《 Đie‌‌m To‌‌i La‌ Du‌‌ng》cu‌a ca‌c cu‌, khie‌‌n cho ngu‌o‌‌i kho‌ng co‌ Thu‌‌c Tie‌‌n bi‌ ro‌i va‌o vo‌ng 《LY‌ LUA‌‌N》 xuo‌ng, tu‌‌ đo‌ kho‌ng ba‌‌t đu‌o‌‌c ma‌ch. 

   ● To‌i cu‌ng chi‌ la‌ ngu‌o‌‌i may ma‌‌n, đo‌c sa‌ch cu‌a cu‌ Vu‌o‌ng thu hoa‌ch đu‌o‌‌c chu‌t da lo‌ng cu‌a cu‌, ma‌ ba‌‌t ma‌ch cu‌ng co‌ chu‌t tha‌nh tu‌‌u.

     Nay xin chia se‌ chu‌t kinh nghie‌‌m cho đo‌‌ng nghie‌‌p muo‌‌n ti‌m manh mo‌‌i đe‌‌ ho‌c sa‌ch cu‌a cu‌. 

      ☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆☆

     Ma‌ch Kinh Quye‌‌n 1 co‌ vie‌‌t:

    《 脉沉重,前不至寸口,徘徊绝者,病在肌肉遁尸。》

     Phie‌n a‌m: ma‌ch Tra‌‌m tro‌ng, tie‌‌n ba‌‌t chi‌ tho‌‌n kha‌‌u, bo‌‌i ho‌‌i tuye‌‌t gia‌, be‌‌nh ta‌i co‌ nhu‌c Đo‌‌n Thi. 

     Ta‌m di‌ch cho de‌‌ hie‌‌u: ma‌ch tra‌‌m a‌n co‌ lu‌‌c, ma‌ch đoa‌n kho‌ng cha‌y to‌‌i bo‌‌ tho‌‌n, do‌ng ma‌u trong lo‌ng ma‌ch cha‌y lua‌‌n qua‌‌n o‌‌ bo‌‌ quan, bo‌‌ tho‌‌n ma‌ch tuye‌‌t. Co‌ ma‌ch na‌y thi‌ bie‌‌u hie‌‌n be‌‌nh se‌ o‌‌ ta‌i co‌ nhu‌c va‌ chu‌‌ng be‌‌nh Đo‌‌n Thi. 

    ● Ca‌u truye‌‌n ma‌ch Ba‌i Ho‌‌i va‌ chu‌‌ng Be‌‌nh 《Đo‌‌n Thi 》.

     Te‌‌t Ta‌n Su‌‌u vu‌‌a ro‌‌i, to‌i ve‌‌ que‌ a‌n te‌‌t. Đe‌‌n mu‌ng 2 thi‌ co‌ di‌ be‌n ngoa‌i ve‌‌ a‌n te‌‌t, da‌‌t theo con ga‌i ve‌‌ cho‌i.

      Di‌ ke‌‌, co‌ con ga‌i di‌ su‌‌c kho‌e ke‌m, nho‌‌ to‌i ba‌‌t ma‌ch kie‌‌m tra cho em a‌‌y.

     Em sinh na‌m 98, da‌ng ho‌i ga‌‌y nhu‌ng ma‌‌t sa‌ng co‌ tha‌‌n. 

    To‌i ba‌o em đu‌a tay ba‌‌t ma‌ch, pha‌t hie‌‌n:

    Ta‌ tho‌‌n ma‌ch tie‌‌u ma‌ cu‌‌c nhu, nhie‌‌u lu‌c mo‌ ho‌‌ kho‌ng tha‌‌y ma‌ch na‌y.

    Ta‌ quan, xi‌ch ma‌ch đa‌i, hu‌‌u lu‌‌c, do‌ng ma‌u cha‌y lua‌‌n qua‌‌n trong bo‌‌ quan.

    Lu‌o‌‌ng xi‌ch ma‌ch tru‌o‌‌ng đa‌i xuo‌‌ng qua‌ xi‌ch, xua‌‌t hie‌‌n ra‌‌t nhie‌‌u ma‌ch huye‌‌n te‌‌ qua‌‌n quanh tha‌nh ma‌ch. 

      Khi đo‌ to‌i quay sang ho‌i di‌: di‌ co‌ đe‌‌ y‌, em o‌‌ nha‌ co‌ nhu‌‌ng khoa‌ng tho‌‌i gian bi‌ " đu‌‌ng hi‌nh" khoa‌ng 10-30 gia‌y kho‌ng? 

     Di‌ xa‌c nha‌‌n co‌, va‌ no‌i the‌m: o‌‌ co‌ quan em đa‌‌y la‌m, mo‌i ngu‌o‌‌i ba‌o em ke‌m ta‌‌p trung.

    Khi na‌y to‌i mo‌‌i ho‌i em: 

    + em co‌ hay bi‌ cho‌ng ma‌‌t, to‌‌i ma‌‌t khi đu‌‌ng hoa‌‌c ngo‌‌i da‌‌y đo‌‌t ngo‌‌t.

    + Ngu‌o‌‌i kha‌c no‌i nhu‌ng em nghe kho‌ng ro‌.

    + Thu‌o‌‌ng xuye‌n ga‌‌p trie‌‌u chu‌‌ng muo‌‌n no‌i nhu‌ng kho‌ng nghi‌ ra tu‌‌ hoa‌‌c đie‌‌u mi‌nh muo‌‌n no‌i.

    + khi em đi la‌i, cha‌n va‌ tay co‌ hay va va‌ đa‌ va‌o ba‌n ghe‌‌, cha‌n tu‌o‌‌ng, ca‌nh cu‌‌a va‌ đo‌‌ va‌‌t xung quanh, du‌ mi‌nh nhi‌n tha‌‌y chu‌ng kho‌ng? 

   + đi tie‌‌u em co‌ tha‌‌y bo‌t no‌‌i nhie‌‌u nhu‌ nu‌o‌‌c xa‌ pho‌ng kho‌ng? 

      Ta‌‌t ca‌ ca‌u ho‌i tre‌n em đe‌‌u xa‌c nha‌‌n co‌.    

    Lu‌c na‌y to‌i no‌i vo‌‌i em va‌ di‌: be‌‌nh cu‌a em co‌ the‌‌ la‌ do nguye‌n nha‌n na‌o đo‌ ma‌ ca‌c tie‌‌u đo‌‌ng ma‌ch ca‌‌p ma‌u cho vo‌ na‌o kho‌ng đu‌, ne‌n co‌ ca‌c trie‌‌u chu‌‌ng kia. 

    Di‌ ba‌o: the‌‌ đe‌‌ di‌ ve‌‌ mua thuo‌‌c hoa‌t huye‌‌t bo‌‌ na‌o cho em.

    To‌i kho‌ng no‌i gi‌. La‌‌ng la‌‌ng ga‌‌t đa‌‌u. ( Ba‌n na‌o la‌m nghe‌‌ la‌u chắc cũng hiểu.)

      Pha‌n ti‌ch ( theo ta‌y y cho ca‌c ba‌n de‌‌ hie‌‌u):

      + bn co‌ ca‌c trie‌‌u chu‌‌ng tre‌n, co‌ the‌‌ do he‌‌ tho‌‌ng tie‌‌u đo‌‌ng ma‌ch cung ca‌‌p ma‌u cho vo‌ na‌o ga‌‌p ro‌‌i loa‌n, khie‌‌n ca‌c chu‌‌c na‌ng ngo‌n ngu‌‌, va‌‌n đo‌‌ng, đi‌nh hu‌o‌‌ng kho‌ng gian đe‌‌u gia‌m.

     Tha‌‌m chi‌ hie‌‌n tu‌o‌‌ng " đu‌‌ng hi‌nh" ma‌‌t 10-30 gia‌y chi‌nh la‌ bie‌‌u hie‌‌n co‌n đo‌‌ng kinh kho‌ng đie‌‌n hi‌nh.


Khi he‌‌ tha‌‌n kinh TW, chu‌‌c na‌ng va‌‌n đo‌‌ng ga‌‌p ro‌‌i loa‌n, thi‌ khi na‌y ca‌c ha‌ch cu‌a tu‌y so‌‌ng se‌ "vu‌ng da‌‌y" va‌ kho‌ng nghe quye‌‌n chi‌ huy, vi‌ va‌‌y xua‌‌t hie‌‌n nhie‌‌u ma‌ch huye‌‌n te‌‌ cha‌y quanh o‌‌ng ma‌ch, va‌ ma‌‌c du‌ nhi‌n tha‌‌y va‌‌t ca‌n nhu‌ng cha‌n tay ra‌‌t hay bi‌ va đa‌‌p va‌o đo‌‌ va‌‌t. 

   => Bie‌‌u hie‌‌n tre‌n chi‌nh la‌ nhu‌‌ng gi‌ ma‌ sa‌ch Ma‌ch kinh Mo‌ Ta‌: Be‌‌nh ta‌i CO‌ NHU‌C, ĐO‌‌N THI. 

    No‌i theo đo‌ng y: No‌‌i Kinh co‌ no‌i: Du cu‌a can, ta‌i ca‌nh ha‌ng, nay can co‌ ta‌‌c phong qua‌‌y nhie‌‌u, thanh du‌o‌ng kho‌ng le‌n vu‌ng đa‌‌u na‌o đu‌o‌‌c. Ke‌‌t ho‌‌p tha‌‌n co‌ A‌m Ta‌, Nhie‌‌u loa‌n qua‌ tri‌nh Ho‌a Tinh Sinh Tu‌y, khie‌‌n tu‌y Ha‌i Ba‌‌t Tu‌c. 

   ¤¤¤ Va‌ ca‌ch đa‌y 3 nga‌y, di‌ co‌ go‌i to‌i, gio‌ng vo‌‌i va‌ng ba‌o đu‌a em đo‌ qua o‌‌ la‌i am đe‌‌ chu‌‌a cho em no‌. 

     To‌i ho‌i em bi‌ la‌m sao, thi‌ di‌ no‌i em no‌ ho‌m nay vu‌‌a bi‌ le‌n co‌n co gia‌‌t, su‌i bo‌t me‌p, ca‌‌n va‌o lu‌o‌‌i cha‌y ma‌u.

      Va‌‌y la‌ be‌‌nh tu‌‌ chu‌‌ng Đo‌‌n Thi đa‌ chuye‌‌n tha‌nh chu‌‌ng 《 Kinh Gia‌n》, na‌‌ng ho‌n ro‌‌i. 

  Ps: ba‌n na‌o muo‌‌n ca‌m nha‌‌n ma‌ch 《BA‌I HO‌‌I》na‌y, ne‌‌u o‌‌ no‌i kho‌ng co‌ di‌ch thi‌ co‌ the‌‌ qua Am đe‌‌ tra‌i nghie‌‌m. 

     Ngo‌a Long Am

     Đo‌‌ Sinh Đu‌o‌‌ng

     Ths.Bs: Ngo‌ Tie‌‌n Hu‌o‌‌ng


Tản Mạn Đông Y phần 4: Khái Niệm TRÙNG trong Đông Y.

    1. Trường trùng là giun đũa, Thốn Trùng là sán, Bạch Trùng là giun kim.

    2. Tam Trùng, là 3 loại trùng (không có thật), gây ra các rối loạn về hành vi của bệnh nhân ( tâm thần).

      +) Thượng trùng: ham mê và nghiện xem những thứ biến thái ( xem sex, nhìn trộm đồ lót, nhìn động vật giao hợp, nghiện xem máu chảy nên giết động vật/ người để thỏa mãn ).......

      +) Trung Trùng: nghiện ăn món gì đó, nghiện uống món gì đó mà không thể ngừng được hoặc tham ăn giật đồ ăn, đồ uống của người khác để thỏa mãn cơn thèm.......

      +) Hạ Trùng: nghiện quan hệ tình dục mà không khống chế được hành vi và luân thường đạo lý........

    4. Cổ Trùng có phạm vi rất rộng, tạm chia ra 2 loại là tự nhiên và có người nuôi. ví dụ sâu quảng, bệnh đậu lào cũng là một loại cổ trùng tự nhiên.... 

    5. Tam trùng bản chất là rối loạn về tâm lý và hành vi. Vì vậy có thể thông qua " CHÚC DO" thuật để điều trị. Hoặc có một số vị thuốc đông y có tác dụng chũa Tam Trùng cũng có hiệu quả tốt. 

    6. Ví dụ chữa thốn trùng, trường trùng có Binh Lang, Lôi Hoàn; Chữa Tam Trùng có Địa Long, Ý Dĩ Căn...

    7. Nếu các bạn tinh ý, sẽ thấy các bệnh nhân đột nhiên có rối loạn về tính cách, tâm lý và hành vi, thì các phương thuốc cổ điển thường xuất hiện các vị thuốc có tác dụng chữa "Tam Trùng". 

       Ps: phòng học tại Ngọa Long Am trên cơ bản đã xong, sẵn sàng cho tháng 7 âm đón khóa 2 về học. 

       Độ Sinh Đường

       Th.s. Bs: Ngô Tiến Hưởng / OX Super



Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

Facebook

28 friends posted on OX's profile

Minh NguyễnOX Super

rnedpSotos02

2

h4

u

57u

 

i56

0

801

3

77

F

6

1

a

h3m

2

65

b

r

c

e

1

m

r

5tc3

y

0l

 

g7160

 ·


Dành cho các đồng nghiệp khi mới đọc sách đông y cổ ( vd Thần Nông Bản Thảo Kinh), có lý giải gần đúng nhất về "Trùng" trong đông y. 

     Các khái niệm về Thi Chú, Quỷ Chú, Trúng Ác, Ngũ Binh, Tinh Tà, Ang Quỷ, Hồ Hoặc.... để hiểu rõ thì các bạn có thể tìm hiểu thêm bộ môn " Chúc Do Thập Tam Khoa".


Tản Mạn Đông Y phần 4: Khái Niệm TRÙNG trong Đông Y.

    1. Trường trùng là giun đũa, Thốn Trùng là sán, Bạch Trùng là giun kim.

    2. Tam Trùng, là 3 loại trùng (không có thật), gây ra các rối loạn về hành vi của bệnh nhân ( tâm thần).

      +) Thượng trùng: ham mê và nghiện xem những thứ biến thái ( xem sex, nhìn trộm đồ lót, nhìn động vật giao hợp, nghiện xem máu chảy nên giết động vật/ người để thỏa mãn ).......

      +) Trung Trùng: nghiện ăn món gì đó, nghiện uống món gì đó mà không thể ngừng được hoặc tham ăn giật đồ ăn, đồ uống của người khác để thỏa mãn cơn thèm.......

      +) Hạ Trùng: nghiện quan hệ tình dục mà không khống chế được hành vi và luân thường đạo lý........

    4. Cổ Trùng có phạm vi rất rộng, tạm chia ra 2 loại là tự nhiên và có người nuôi. ví dụ sâu quảng, bệnh đậu lào cũng là một loại cổ trùng tự nhiên.... 

    5. Tam trùng bản chất là rối loạn về tâm lý và hành vi. Vì vậy có thể thông qua " CHÚC DO" thuật để điều trị. Hoặc có một số vị thuốc đông y có tác dụng chũa Tam Trùng cũng có hiệu quả tốt. 

    6. Ví dụ chữa thốn trùng, trường trùng có Binh Lang, Lôi Hoàn; Chữa Tam Trùng có Địa Long, Ý Dĩ Căn...

    7. Nếu các bạn tinh ý, sẽ thấy các bệnh nhân đột nhiên có rối loạn về tính cách, tâm lý và hành vi, thì các phương thuốc cổ điển thường xuất hiện các vị thuốc có tác dụng chữa "Tam Trùng". 

       Ps: phòng học tại Ngọa Long Am trên cơ bản đã xong, sẵn sàng cho tháng 7 âm đón khóa 2 về học. 

       Độ Sinh Đường

       Th.s. Bs: Ngô Tiến Hưởng / OX Super


http://www.ctcwri.idv.tw/CTCW-ZYDQ%E4%B8%AD%E9%86%AB%E5%A4%A7%E5%85%A8/ZYDQ40%E6%8B%94%E7%BD%90%E5%88%AE%E7%97%A7%E7%99%82%E6%B3%95165/ZYDQ40ALL/40-40%E7%A5%9D%E7%94%B1%E9%86%AB%E5%AD%B8%E5%8D%81%E4%B8%89%E7%A7%91.pdf


Chuc Do Thap Tam Khoa


https://www.facebook.com/ha.khung.282508

https://www.facebook.com/lan.lethi.313


OX Super is with Đăng Minh and 

10 others

.

Favourites

 ·

oreSsptond4

a

37h5c45a5g

M

1

1

 

25g69fgtg2f

8

632010l2hu1

y

485u479f12

 ·

CÁCH TÔI ĐI HỌC THẦY – VÀ VÌ SAO ĐỜI TÔI THAY ĐỔI

Nhiều người đi học thầy để "xin bí kíp".

Tôi thì khác – tôi đi học để giải mã cách tư duy của thầy.

1. Tôi không quan tâm thầy dạy cái gì, tôi quan tâm vì sao thầy nghĩ như vậy.

Bí quyết thật sự không nằm ở câu trả lời, mà nằm ở logic lựa chọn.

Tôi muốn biết: tại sao thầy bỏ phương án A,B mà lại chọn phương án C?

Tư duy đó mới là thứ quý nhất.

2. Chiêu thức mặc dù tốt, nhưng tôi lưạ chọn học góc nhìn.

Chiêu có thể lỗi thời. Nhưng có góc nhìn đúng thì sẽ sản xuất ra chiêu mới.

Người giỏi ngoài việc họ học nhiều hơn, thì mấu chốt còn nằm ở việc họ nhìn vấn đề khác mình.

3. Tôi luôn đi tìm "cái gốc" của hệ thống.

Một phương pháp hay không phải vì nó kỳ diệu,

mà vì nó giải quyết trúng cái lõi.

Tôi học để phân biệt: đâu là ngọn – đâu là gốc.

4. Tôi không học để giỏi lên – tôi học để hiểu mình đã sai ở đâu.

Tôi học để bóc tách từng lỗi sai bên trong mình – đó là khởi đầu của quá trình lột xác.

5. Tôi chọn học người có tư duy hệ thống.

Một người giỏi chưa chắc dạy được.

Nhưng một người có nền tảng tư duy rõ ràng, thì chỉ cần một câu cũng có thể giúp tôi thức tỉnh.

6. Khi học với thầy mà gặp vấn đề, Tôi luôn hỏi: Nếu tôi là thầy, tôi sẽ làm gì? 

   Sau đó quan sát xem thầy có làm như mình dự đoán không. 

   Đặt mình vào vị trí thầy – không để chứng tỏ,

mà để rèn luyện cái đầu của mình đã khớp với đúng tư duy của thầy chưa.

Học mà không luyện não, thì chỉ là nghe kể chuyện.

7. Tôi đi học thầy không phải để giống thầy.

Tôi học cách tư duy hay của các thầy để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.

Ngày bạn bắt đầu thay đổi cách đi học,

cũng là ngày bạn bắt đầu bước vào một hành trình hoàn toàn khác.

Hành trình của người thực sự trưởng thành là bắt đầu từ tư duy. 

㊙️ Em Xin Gửi Lời Tri Ân Tới Các Thầy Cô Của Học Viện, đặc biệt là Tới Gs.Bs Lê Thị Thanh Nhạn và Ths.Bs Lê Thị Lan đã chỉ bước và tạo dựng nền tảng cho e trong những ngày mới vào trường.

Ps: Bật mí, ngày xưa phỏng vấn khi vào trường thì bốc đúng bàn của Thầy Huy. 

#địinhvịbảnthân #cáchtưduy #họcthầy #truyềncảmhứng


https://youtu.be/qOh5zT4D98c


https://youtu.be/rh1EQ1N3SXA?t=211

cái lưỡi là mầm của tâm ấy


https://youtu.be/70s0W9UZyFo


🌿 Quán Thân 🌿

Quán thân không chỉ là quan sát thân thể này đang thở, đang đi, đang ngồi.

Quán thân là soi xét:

Mỗi động tác phát khởi từ đâu?

Mỗi hành động chịu dẫn dắt bởi gì?

Thân động, ắt do tâm khởi.

Hành động là gốc, kết quả là ngọn.

Hiểu được thân, ắt rõ tâm; biết nhân, thì tỏ quả.

Người học y, kẻ hành y, càng cần quán thân.

Bởi quán thân là bước đầu của biết bệnh từ đâu sinh, và thấy đạo dưỡng sinh và trị tật ở chỗ nào.


Trọng Hữu »»»Y Học Cổ Truyền & Dưỡng Sinh


[CHIA SẺ TÀI LIỆU] ATLAS OF ACUPUNCTURE - CLAUDIA FOCKS BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT BÁCH KHOA CHÂM CỨU 

Đội ngũ dịch thuật - Tâm Tĩnh Lặng: Bác sĩ Nguyễn Đức Vương chủ biên và cộng sự

Tài liệu hơn 700 trang cung cấp lý luận chuyên sâu về Hệ Kinh Lạc, các hình ảnh chính xác và các ứng dụng cụ thể trong điều trị lâm sàng. 

https://online.fliphtml5.com/zktjw/jbzi/?fbclid=IwY2xjawMxqNJleHRuA2FlbQIxMABicmlkETF5ZlMyUHlqNHJxb3F0enZtAR6LNP8X7fKqcPEESle05BQGiCrj6H1zlWjWlfjjAEIy-IqbNkMwejnO4IN4bA_aem_mM8mjSAJs1GU2zK-QQQIOw#p=34


Đông y không phải là tổng kết kinh nghiệm như mọi ng tường nói


https://youtu.be/C76Mf1qnuRA?list=PLFSogWWLcmt6B5BWNtIobzJgiK4rzS9Vm

Địa lý Hồng hoang Đăng minh


https://www.youtube.com/shorts/fe379uYwtaE?feature=share

Chính Hổ BIến


Chính -> Thể + Dụng ->Người + Bệnh


https://www.daotam.info/booksv/DichLyCaoDai/NguyenThuy/ydao/ydao-II.htm


https://www.zysj.com.cn/lilunshuji/zhaoshaoqinyian/1249-66-1.html


https://www.zysj.com.cn/lilunshuji/zhaoshaoqinyian/1249-65-2.html


https://blog.wenxuecity.com/myblog/68371/202308/16132.html


https://blog.wenxuecity.com/myblog/68371/202411/4359.html


https://www.zysj.com.cn/lilunshuji/zhaoshaoqinyian/index.html


https://www.facebook.com/docduonggiobuitv/videos/512121138265352/?__cft__[0]=AZWMI0paDel4zV5f0gp2dcMSYFbLTbQNxnqJjHgt0cJryfAMAscgo4cvWOvr3N57dPz9COxJUF_LhZLKQrVg4TEz1NQju25hZmiddFyOWnUjCo0A4ZAe6PY99h-lnFwGDfv107R6lFctbRjcCO6xND1iYVgVNM84wyF3_mltoMDD9Ver3fSdij5UaktdGJsWO99VpywjDovkbeTuoNGbEUH7NDPq7fNWDG2RlttWsC0erQ&__tn__=%2CO%2CP-y-R

Sa Tu Cung, Trĩ 

Doc Duong Gió Bụi


https://www.facebook.com/docduonggiobuitv/videos/1233334261733187/?__cft__[0]=AZXSh1r5KZLY_SdzTQp7HT2i1j_ymVe-ca4PVJX_tA82gvelrBgVsRlYBKmew6JHYKp8_bA0dzD_TYqOziKLVt0WZ8jhOpOp565mBQ1kYLqMJ4-FL5tinT_ohu1MGNrAQrIfp1NHwafTP-fcWuyKJXcS0KUTYwZoGaPvyjX4zmzTSgCfKW0maZJtYU648uqJ-PfCVs0iBNKygJPLCVRWZ2lxk-a88P-yQwiGOmtO_Uan_Q&__tn__=%2CO%2CP-y-R

Bài Thuốc Võ Xoa Bóp Xương Khớp Từ Các Loại Ngải Của Người Xưa

...

Bài thuốc võ xoa bóp xương khớp từ các loại ngải của người xưa là một phương pháp chữa trị độc đáo, kết hợp giữa kỹ thuật xoa bóp điêu luyện của võ thuật và sức mạnh chữa lành từ các loại ngải quý.

 Người xưa tin rằng, các loại ngải như ngải cứu, ngải tượng, ngải mọi... chứa đựng dược tính đặc biệt, có khả năng thẩm thấu sâu vào các khớp xương, giúp giảm đau nhức, kháng viêm và phục hồi chức năng vận động. 

Qua bàn tay của những người luyện võ, bài thuốc này không chỉ đơn thuần là xoa bóp mà còn là sự tác động mạnh mẽ vào các huyệt đạo, kinh mạch, khai thông khí huyết, mang lại cảm giác thư thái và khỏe khoắn cho người bệnh. 

Đây là một nét đẹp văn hóa truyền thống, thể hiện sự am hiểu sâu sắc về y học cổ truyền và tinh thần thượng võ của dân tộc ta.

#docduonggiobui #tinhhoavoviet #thuocvo #thuocvoxoabop


Cua Đinh (Ba Ba Nam Bộ)


Dọc Đường Gió Bụi TV

Thảo Võ Hướng Dẫn Chi Tiết Cách Sử Dụng:

Thành phần chính: Đầu cua đinh, ngải 5 ông, băng phiến, long não

Công dụng:

- Điều trị sa tử cung hiệu quả: Xông hơ than giúp tử cung nhanh chóng co rút lên vị trí ban đầu.

- Phục hồi và nâng đỡ dây thần kinh: Giúp bộ phận sinh dục khỏe mạnh, giảm đau và ngăn ngừa tái phát.

- Loại bỏ các triệu chứng khó chịu: Giúp dịch mủ, khí hư sạch sẽ, mang lại cuộc sống thoải mái.

Cách thực hiện:

- Chuẩn bị một chậu than nhỏ, đốt than đỏ đều (khoảng 2 đến 3 viên than).

- Cho đầu cua đinh (1 hoặc 2 đầu), ngải 5 ông (20 đến 30g), băng phiến (20 đến 30g), long não (20 đến 30g) lên trên than nóng.

- Bao kín xung quanh chậu than, chỉ để khói xông trực tiếp vào vùng kín.

- Thực hiện 2 - 3 ngày một lần, thời gian xông từ 60 đến 80 phút, đến khi đầu cua đinh cháy thành tro.

LƯU Ý: Đốt than đỏ hồng mới cho đồ vào xông, không được để than còn sống, khói than không tốt. Canh nhiệt độ than để không bị bỏng. Thời gian xông rất quan trọng, phải đảm bảo thời gian xông như trên. Trường hợp than bị muội, thuốc còn thì nhờ người thân quạt thêm than cho vào để xông tiếp.

KIÊNG KỴ:

- Trong thời gian xông không quan hệ vợ chồng, hạn chế đi tiểu tiện và đại tiện, hạn chế vệ sinh vùng kín bằng dung dịch vệ sinh, làm nặng, ho nhiều và táo bón. Kiêng sau xông khoảng 15 ngày nữa để tử cung rút lên ổn định bình thường.

- Tùy vào cơ địa, tình trạng mỗi người mà độ hiệu quả và liệu trình xông sẽ khác nhau. Nhóm bệnh mới bị, sa độ 1 – 2 sẽ nhanh hơn nhóm khác.

- Trong thời gian xông cua đinh nên kết hợp dùng thêm một số thuốc tây hỗ trợ tử cung co rút lên.


OX Super is with Anh Canh and 

4 others

.

ednsootrpS2mi9a3hu8mlt4c49fmil5

u

u

7

89hfg91i2070

 

e

l9ucmc3

J

79

n

m

 ·

Mạch Chi Đạo 

⭐️ P14. Thôi Diễn Phương Pháp Tìm Tam Quan Theo Mạch Cổ Điển và Phương Hướng Phát Triển. 

I. Định nghĩa và phân vị Tam Bộ: Thốn – Quan – Xích

Trong mạch học cổ truyền, Tam Bộ hay còn gọi là Tam Quan, bao gồm ba vị trí thốn (寸), quan (关) và xích (尺), được bố trí liên tiếp dọc theo động mạch quay ở mặt trong cổ tay. Đây là ba vị trí cơ bản trong thủ pháp chẩn mạch, có vai trò then chốt trong việc phân tích biểu – lý, hàn – nhiệt, tạng – phủ và khí – huyết.

Căn cứ vào mô tả trong cổ thư 《脉经》 (Mạch Kinh) của Vương Thúc Hòa (王叔和), ranh giới giữa ba bộ này được định nghĩa như sau:

> 从鱼际至高骨, 却行一寸,其中名曰寸口。

从寸至尺,名曰尺泽,故曰尺寸。

寸后尺前名曰关。

Lược dịch và chú giải:

“Từ huyệt Ngư Tế (鱼际) đến điểm cao xương (cao cốt – 高骨), lùi lại một thốn (一寸) thì gọi là Thốn Khẩu (寸口).”

“Từ Thốn đến Xích, có huyệt gọi là Xích Trạch (尺泽), nên gọi chung là Xích Thốn (尺寸).”

“Khoảng giữa Thốn và Xích, tức là phía sau Thốn, phía trước Xích, được gọi là Quan (关).”

II. Giải phẫu thực chứng và hiệu chỉnh ranh giới Tam Bộ

1. Thốn (寸):

Vị trí giải phẫu của Thốn được xác định từ đầu dưới của xương quay – nơi phình to và nhô cao tạo thành điểm mốc "cao cốt", kéo dài đến vùng da lõm nằm dưới nhóm cơ ô mô cái, trùng với ranh giới nơi sắc tố da thay đổi.

Khi sờ nắn, có thể xác định bộ Thốn bằng cách từ huyệt Ngư Tế (ở phía mô cái) vuốt về phía cổ tay đến khi chạm vào phần đầu dưới của xương quay; từ đó đo ngược lại một thốn chính là đoạn Thốn Khẩu.

2. Quan (关):

Bộ Quan là vùng nằm ngay phía sau của Thốn và phía trước của Xích, tương ứng với đoạn cổ xương quay – nơi chuyển tiếp giữa thân xương quay và đầu dưới xương quay.

Giới hạn chính xác của bộ Quan được xác định từ:

Mặt ngoài đầu dưới xương quay, tại chỗ tiếp giáp với gốc của mỏm trâm quay.

Trung điểm của đoạn cổ xương quay (còn gọi là “cổ bình”) – nơi vòm cung hình thành giữa thân và đầu xương.

Hai mốc giải phẫu cần được thiết lập khi định vị bộ Quan:

Viền xương đòn – mỏm vai (trên chi trên).

Viền xương chậu – L4/L5 (trên trục thân mình).

3. Xích (尺):

Nếu khó xác định bộ Quan, có thể áp dụng phương pháp ngược lại: từ huyệt Xích Trạch (ở vùng khuỷu) vuốt dọc kinh Thủ Thái Âm Phế trở về cổ tay, khi chạm vào đầu dưới xương quay thì đó chính là giới hạn dưới của bộ Quan.

Từ đó, tiếp tục vuốt xuôi xuống cẳng tay, ta sẽ cảm nhận được một gờ cân mạc nông nằm ngang gây cảm giác vướng và lõm nhẹ tại 1/3 dưới cẳng tay – đây chính là giới hạn dưới của bộ Xích. Vị trí này tương ứng về mặt chức năng với vùng bàn chân theo lý luận phân bộ tam tiêu. 

III. Ý nghĩa và yêu cầu trong chẩn mạch

Việc xác lập chính xác ranh giới của ba bộ Thốn – Quan – Xích là điều kiện tiên quyết trước khi tiến hành chẩn mạch. Nếu vị trí phân bộ không được xác định rõ ràng, việc cảm mạch sẽ trở nên mơ hồ, dễ dẫn đến nhận định theo kinh nghiệm đại khái thay vì căn cứ vào dữ liệu vi tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán phân biệt bệnh lý theo tạng – phủ, khí – huyết hoặc biểu – lý.

Do đó, người học và hành nghề chẩn mạch cần nắm vững mô hình giải phẫu lâm sàng tương ứng với ba bộ, đồng thời thường xuyên thực hành sờ nắn để hình thành cảm giác định vị chính xác và ổn định trong thủ pháp chẩn mạch.

IV. Các trường phái khác về định vị Tam Quan

Trong lịch sử diễn tiến của Mạch học Đông phương, ngoài mô tả có tính hệ thống trong sách Mạch Kinh, đã xuất hiện nhiều trường phái khác nhau trong việc xác định vị trí ba bộ Thốn – Quan – Xích tại cổ tay. Mỗi cách tiếp cận này đều phản ánh quan niệm riêng về giải phẫu và lộ trình kinh lạc, tuy nhiên không phải tất cả đều tuân thủ nguyên lý cấu trúc – không gian của hệ mạch và tạng phủ. Dưới đây là tổng hợp ba phương pháp định vị phổ biến và phân tích những hạn chế của chúng:

1. Phân chia đồng đều từ cao cốt:

Phái này xác định vị trí cao cốt làm trung điểm, từ đó:

Lên trên 1 thốn là bộ Thốn

Ngay vị trí cao cốt là bộ Quan

Xuống dưới 1 thốn là bộ Xích


Cách chia đều này mang tính quy ước hình học, thuận tiện về mặt thao tác, nhưng không dựa trên nguyên tắc tỉ lệ cơ thể theo không gian mạch học, cũng không phản ánh logic sinh lý của Tam Tiêu.

Hệ quả:

Việc chia đều không gian theo chiều dọc như vậy gây rối loạn tổ chức mạch tượng, đặc biệt là:

Thiếu không gian cho bộ Thốn (đại diện cho vùng đầu – ngực trên) và bộ Xích (đại diện cho vùng hạ tiêu, chi dưới).

Chồng lấn vị trí của các tạng phủ tương ứng trong quá trình định danh mạch tượng.

Dẫn đến sai lệch trong sơ đồ mạch hình người, khiến hình ảnh bệnh lý trở nên rời rạc, không liền mạch với thực thể giải phẫu.

2. Lấy cao cốt là mắt cá ngoài của xương trụ:

Một số thầy dạy bắt mạch xác định cao cốt là vùng mắt cá ngoài (mỏm trâm trụ), rồi kẻ một đường ngang về phía xương quay, lấy giao điểm đó làm bộ Quan. Từ đó xác định bộ Thốn ở trên và bộ Xích ở dưới.

Hệ quả:

Cách xác định này khác biệt hoàn toàn với định nghĩa cao cốt trong Mạch Kinh, vốn lấy đầu dưới xương quay làm mốc.

Tuyến đường ngang từ mắt cá ngoài đến xương quay chưa tính đến quán tính trượt của ngón tay mỗi người là khác nhau, làm xác định sai lệch bộ vị dẫn tới vị trí bắt mạch không đồng nhất.

Gây khó khăn cho việc thiết lập chuẩn hóa giữa các thầy thuốc khác nhau khi thao tác.

3. Phân chia theo vị trí đặt tay ba ngón (trỏ – giữa – áp út):

Đây là phương pháp phổ biến trong giảng dạy sơ cấp: đặt ngón giữa lên vùng cao cốt (Quan), ngón trỏ lên Thốn, ngón áp út lên Xích. Cách làm này cung cấp hướng dẫn mang tính hình tượng, nhưng thiếu tính định lượng.

Hạn chế chính:

Không xác định được giới hạn rạch ròi của từng bộ: độ dài – chiều rộng của mỗi bộ đều không được quy chuẩn.

Chỉ mô tả chung chung rằng người thân hình lớn thì đặt tay xa ra, người nhỏ thì đặt sát lại – dẫn đến một hệ quy chiếu cảm tính, không có chuẩn mực.

Tạo nên nền tảng cho sự tranh luận không hồi kết giữa các học giả, vì thiếu điểm tham chiếu thống nhất về mặt giải phẫu – mạch lý.

Việc định vị chính xác Tam Quan (Thốn – Quan – Xích) không chỉ là thao tác hình thức, mà chính là bản đồ giải phẫu thu nhỏ trên mạch đạo, là nền tảng để thiết lập tương quan giữa tạng phủ và mạch tượng. Mọi sai lệch về định vị đều có thể kéo theo nhận định bệnh lý sai lạc, khiến việc biện chứng luận trị trở nên mơ hồ và thiếu tính đặc hiệu.

V. Tam Quan Ứng Chiếu – Các phương pháp phân vùng chức năng trên không gian mạch

Việc xác định ba bộ Thốn – Quan – Xích không chỉ nhằm mục tiêu định vị hình học trên cổ tay, mà quan trọng hơn là làm nền tảng để xây dựng hệ thống quy chiếu giữa các vị trí bắt mạch với chức năng sinh lý, cấu trúc giải phẫu và hoạt động bệnh lý của cơ thể người. Trong thực hành lâm sàng, có ba hướng phân chia vùng chức năng chính được kế thừa và phát triển qua các thế hệ, mỗi cách đều có những giá trị riêng biệt và ứng dụng đặc thù.

1. Phân vùng theo Tam Tiêu – Tỉ lệ cơ thể học

Trong sách “Mạch Kinh - 脉经”, hệ thống Tam Quan được đối chiếu trực tiếp với mô hình Tam Tiêu – một khái niệm phân vùng chức năng trong Y học cổ truyền.

> 寸主射上焦,出头及皮毛景手。关主射中焦,腹及腰。尺主射下焦,少腹至足。

(Thốn chủ thượng tiêu, phản ánh vùng đầu, da, cổ, tay. Quan chủ trung tiêu, liên hệ bụng và thắt lưng. Xích chủ hạ tiêu, ứng với vùng tiểu khung và chân.)

Theo đó:

Thốn bộ: phản ánh các chức năng sinh lý và bệnh lý ở vùng đầu – cổ – tay, tương đương với thượng tiêu.

Quan bộ: liên hệ với vùng bụng – thắt lưng, thuộc trung tiêu.

Xích bộ: phản ánh vùng tiểu khung – chi dưới, thuộc hạ tiêu.

Cách phân chia này lấy tỉ lệ cơ thể làm nguyên tắc quy chiếu không gian, cho phép dựng mô hình hình học liên kết giữa hệ thống mạch tượng và cấu trúc cơ xương – cơ quan nội tạng. Đây là nền tảng quan trọng cho hệ thống Chẩn mạch không gian được phát triển tại Độ Sinh Đường.

2. Phân vùng theo chức năng tạng phủ chủ quản

Cách phân chia thứ hai dựa trên chức năng sinh lý chủ đạo của từng tạng phủ và mối liên hệ biểu lý của chúng. Trong đó, ranh giới của bộ Thốn – Quan được giữ nguyên, còn bộ Xích được mở rộng thêm một thốn về phía dưới. Quan điểm này được ghi nhận rõ ràng trong sách “Nan Kinh - 难经”, thể hiện như sau:

Tay trái:

Thốn: Tâm – Tiểu trường


Quan: Can – Đởm

Xích: Thận – Bàng quang

Tay phải:

Thốn: Phế – Đại trường

Quan: Tỳ – Vị

Xích: Mệnh môn – Tam tiêu

Hệ thống này phân bố tạng phủ thành từng vùng chịu trách nhiệm trên ba bộ Tam Quan, phản ánh mối quan hệ chức năng sinh lý – bệnh lý đặc trưng giữa các tạng. Cách tiếp cận này có tính hệ thống cao, phù hợp với nguyên lý của Đông y trong việc xác định bệnh lý qua mạch tượng tổng hợp.

Tuy nhiên, để ứng dụng hiệu quả, người học cần xây dựng mô hình phân vùng chức năng tạng phủ chi tiết, ví dụ với tạng Can:

Chức năng sinh lý:

Tàng huyết

Chủ sơ tiết (điều đạt)

Chủ cân (gân cơ)

Chủ hiếp lặc (mạn sườn)

Tàng hồn – chủ nộ

Vùng ảnh chiếu giải phẫu – chức năng:

1. Cảnh hạng (du huyệt): Can đưa khí huyết lên nuôi cổ gáy

2. Can Mộc sinh Tâm Hỏa (liên kết Tâm)

3. Sơ tiết Vị (ảnh hưởng tiêu hóa)

4. Sơ tiết Tỳ (điều tiết vận hóa)

5. Can tàng huyết – điều phối với Tỳ khí

6. Điều hòa Xung – Nhâm mạch

7. Chủ quản khớp gối và gân cơ

8. Chủ hiếp lặc (đau mạn sườn)

9. Điều tiết thần chí (tàng hồn)

Cách tiếp cận này cho phép phân tích bệnh lý trên từng vùng chức năng, nâng cao tính chính xác khi chẩn đoán và trị liệu.

3. Phân vùng theo hệ Kinh mạch – Kinh lạc không gian

Phương pháp thứ ba mang tính cấu trúc giải phẫu học hiện đại hơn, dựa trên khái niệm “Khí Khẩu Cửu Đạo Mạch – 气口九道脉” được nêu trong sách “Kỳ Kinh Bát Mạch Khảo” của Lý Thời Trân. Theo đó, hệ thống mạch tại cổ tay không đơn thuần là ba bộ Thốn – Quan – Xích, mà được xem là nơi quy tụ của kinh mạch, hình thành từ các tổ chức mô liên kết bất thường quanh mạch – biểu hiện của trạng thái bệnh lý tại các vùng cơ thể tương ứng.

Trên nền tảng đó, Độ Sinh Đường phát triển hệ thống Mạch Chẩn Kinh Lạc – Tuần Kinh, tích hợp các yếu tố:

Hệ Kinh mạch và Kinh cân (chuỗi động học cơ – gân)

Kinh Thủy (hệ dẫn lưu – dịch thể - hệ bạch huyết - mạng lưới liên mô)

Bì bộ (mạng lưới liên mô – fascia - cấu tạo da)

Đối chiếu giải phẫu 3D theo mô hình hệ cơ – xương – khớp

Hệ thống này cho phép quan sát các thành tố cấu thành mạch như một biểu hiện động lực học của hệ Vận Động trong không gian Mạch Chẩn, phản ánh sự biến động của các cấu trúc giải phẫu chức năng trong trạng thái sinh lý và bệnh lý.

Ba phương pháp phân vùng Tam Quan – dù khác nhau về góc nhìn – đều cùng hướng tới một mục tiêu: thiết lập hệ quy chiếu giữa không gian bắt mạch và toàn thể sinh lý cơ thể. Việc hiểu và kết hợp linh hoạt các hệ quy chiếu này là chìa khóa để người học và người hành nghề Đông y hiện đại có thể chẩn đoán chính xác hơn, lý luận chặt chẽ hơn, và trị liệu hiệu quả hơn.


https://youtu.be/Pxtlzo3Mru8


https://youtu.be/k-7xhR2QHkQ?t=44


https://youtu.be/k-7xhR2QHkQ?t=1029

xả nhịn ntn


https://www.youtube.com/watch?v=1x6ARqlBxXE

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Gạ thằng Tùng viết blog

Xe

Mối họa của Văn tự (Môjika,1942) - Nakajima Atsushi